Phương pháp diệt phiền não đạt an vui
Thông thường bất cứ một con người nào sống trong xã hội nào dù Đông hay Tây, ở tại nơi chôn nhau cắt rún hay ly hương hải ngoại đều phải cùng chịu một sự đau khổ bất như ý giống nhau, đều bị đau đớn nhiều trong cuộc sống từtinh thần đến thể xác. Sự đau khổ này đức Phật đã thấy trước và có nói đến trong phần giáo lý tứ diệu đế. Đó là khổđế, là tám sự kiện đau khổ mà bất cứ một chúng sanh nào, không riêng gì con người đều bị chi phối, ngoài ra đức Phật còn đề cập đến ba trạng thái đau khổ khác rất hiển nhiên mà ít ai để ý đến. Vì những nổi đau khổ này nó xuất hiện từbản chất lâu xa của con người, nên muốn tiêu diệt nó, ta phải từ nơi con người này bằng cách quán sát nó. Trong phần tứ diệu đế đức Phật khẳng định vô minh là nguồn gốc chính và nó khiến con người phải sống trong tâm trạng tham sân si. Đó là cái gốc đưa đến sự khổ não. Cuối cùng đức Phật chỉ dạy cách thức để tiêu diệt tham sân si.
Lòng tham của con người là đặc tánh cố hửu, nó hiện diện trong con người của chúng ta từ luỹ kiếp chứ không phải chỉtrong giai đoạn ta làm người. Lòng tham này bao gồm nhiều khía cạnh. Nó giống như một sự kiện tự nhiên mà sự thật không phải tự nhiên. Phật giáo gọi Tham là một loại câu sanh phiền não, tức là một sự bức rức đau đớn não lòng từ vô thuỷ kiếp quá khứ. Phật dạy muốn tiêu diệt lòng tham thì phải bố thí. Khi thực hiện nhiều bố thí thì lòng tham tự nhiên giảm thiểu và con người thấy thoái mái hơn. Tuy nhiên chúng ta phải hiểu nên bố thí cái gì thì mau chấm dứt lòng tham.? Vì không hiểu điểm này nên có người nghèo khổ, thiếu thốn vật chất họ tự ty mặc cảm rằng mình không thể tu hạnh bố thí được. Trong kinh Kim Cang luận giải đức Phật xác nhận một người đàn ông mới sanh ra là trên thân thể đã có bảy báo vật. Đàn bà nghiệp chướng nặng nề hơn nên không có bảy báo vật này mà lại có năm điều xấu tệ. Vì vậy làm nam nhi là một đặc ân của nhiều kiếp sống có tu hành. Nhưng ta thấy trong xã hội loài người thì đàn bà lại thích tu nhiều hơn đàn ông. Đàn ông thì thường không ý thức mình có bảy báo vật nên cứ tha hồ hưởng thụ cuộc sống, đa sốkhông thành thật với nữ giới về phương diện tình cảm, chỉ trừ những người có trồng căn lành từ nhiều đời về trước. Đàn bà vì có năm điều xấu tệ nên họ bị đau khổ nhiều trong cuộc sống và có khuynh hướng muốn tìm kiếm sự nương dựa nơi chốn thiền môn để cầu thoát ly sự đau khổ. Đàn bà với đàn bà sống với nhau rất nhiều chuyện. Họ thường gây gổ và xích mích lẫn nhau trừ những người biết tu, riêng đàn ông thì không như thế. Đó là chúng ta chỉ sơ lược về bối cảnh sống.
Trở lại vấn đề tu hạnh bố thí, mặc dù nói bố thí tức là cho ra những gì của mình tuy nhiên nó có nhiều nghĩa mà nếu hiểu rỏ ta thầy dù trong hoàn cảnh nào ta vẫn thực hành bố thí được với điều kiện ta phải hiểu những gì đức Phật dạy. Căn bản những lời dạy của đức Phật chỉ để áp dụng trên tâm thể của chúng ta thôi, có nghĩa là chúng ta phải vận dụng tâm để thực hiện mọi việc tu tập. Thuở xưa trong thời đức Phật, có một bà lão nghèo nàn đi ở đợ cho một gia đình phú hộ. Bà này thường xuyên cảm thấy rất khổ trong cuộc sống, một hôm bà gặp một vị Tăng đệ tử của đức Phật. Bà liền tâm sự nổi khổ đau của mình như sau: “ Già nầy làm công cho ông chủ nhiều năm nay, hàng ngày chỉ được ăn cơm thiêu canh cặn và bị la mắng, đêm về chỉ ngủ trong đống rạ, làm việc thì cực nhọc, tâm trạng già đau khổ chỉ muốn chết. Tôn giả có cách nào chết không đau đớn xin chỉ cho già nầy.” Vị thầy bèn hỏi bà lão thế trong tâm bà có ghét hận gì người chủ không? Bà thưa: “Già này ghét thậm tệ, tối ngày chỉ biết nguyền rủa lão chủ và không thích hoà nhã với ai cả” Vị thầy bèn nói “bà đau khổ nghèo hèn như vậy sao không bán cái nghèo đi?” Bà lão kinh ngạc nói “Nghèo cũng bán được sao?” Vị Tăng giãi thích “bán có nghĩa là cho nó đi. Điều này có ý nghĩa bà từ nay hãy bỏ cái tật thù nghịch mọi người, vui vẻ chấp nhận hoàn cảnh sống, đó gọi là bán cái nghèo rồi bà sẽ thấy cuộc đời bà sẽ thay đổi ngay, không còn khổ sở nữa”. Quả thật sau hôm đó bà lão nghe lời, tỏ ra siêng năng làm việc không còn cáu kỉnh với ai hết rồi luôn luôn vâng lời chủ và hoà nhã với mọi người. Người chủ thấy bà lão tự nhiên đổi tánh cũng ngạc nhiên và từ đó ông đối xử với bà tử tế hơn như cho bà ngủ phòng và cho ăn chung với gia đình và những người làm công khác cũng tự nhiên thân thiện và yêu quý bà lão. Từ đó cuộc đời của bà diển biến đúng y như vị thầy đã nói trước cùng bà. Câu chuyện này cho ta thấy khi tâm mình chuyển được từ xấu ra tốt thì hoàn cảnh quanh ta cũng tự nhiên chuyển đổi từ xấu ra tốt y như một định luật. Bởi vậy Phật dạy ở đời muôn sự đều do nơi tâm ta quyết định. Nếu sống với một tâm trạng vui tươi cỏi mở, vị tha, nhân ái, yêu thương đồng loại thì cuộc đời ta cũng sẽ được quả phúc là có nhiều người yêu quý hạnh phúc tràn ngập. Tất cả đều do nơi tâm chúng ta tạo. Nếu như ta chỉ dụng tâm cầu lợi cho riêng mình, ích kỷ, hại nhân, keo kiết, bỏn xẻn, không vị tha, không mến mộ mọi người, thù ghét để mãi trong tâm thì làm sao ta có thể thấy cuộc sống an vui được. Thành ra bố thí không hẳn là cần đến tiền bạc của cải, chỉ cần có cái tâm thật hào phóng, bố thí nụcười, bố thí tình thương, bố thí lòng vị tha, bố thí những ham thích ưa muốn thì tự nhiên ta sẽ nhận lại được đầy đủlòng ưu ái của con người và ngay cả loài vật cũng thích thân cận ta. Tư tưởng con người có những cảm nhận vô hình. Bất cứ ai gởi tình thương đến ta, ta đều có khuynh hướng cảm thấy ấm lòng mặc dù không biết người khác đã ưu ái đến mình, đôi khi mình gần gủi bậc tu hành có đức hạnh mình cũng cảm thấy an lạc một cách đặc biết. Kẻ thù nghịch muốn hại mình đôi khi mình cũng linh cảm được. Hai người yêu nhau xa nhau cũng có những cảm ứng linh dị thường gọi là thần giao cách cảm. Phật và Bồ tát luôn luôn ban tình thương đến chúng sanh và niệm tưởng đến chúng sanh. Tuy nhiên ta phải lắng lòng và đưa tâm thể mình gần với tầng số của các ngài ta sẽ thấy có một sự che chở thiêng liêng đầy hứng thú. Đó là trường hợp của các thiền sư khi ngồi thiền định. Ngày nay bởi vì con người sân hận và tham vọng quá nhiều nên những niệm cảm của chư Phật không đến với chúng ta được. Nếu chúng ta muốn nhận rỏ tình thương và sự che chở của chư Phật thì phải biết lắng lòng và tập gởi niệm yêu thương đến muôn loài tức là tập có một tầng sốtương ưng. Ta phải nên nghỉ đến muôn loài chúng sanh khác thì mới thấy được cái hạnh phúc của mình. Ví dụ như nghỉrằng hằng ngày có không biết bao nhiêu loài chúng sanh đã chết một cách thê thảm trong những lò sát sanh. Những chúng sanh người bất hạnh khuyết tật nghèo đói đang lê bước chân giửa chợ đời đau khổ. Những chúng sanh đang gặp những thảm nạn thiên tai ở một nơi nào đó. Những chúng sanh thấp hoá đang sinh trưởng nơi những vũng nước bùn lầy hay hầm phân dơ bẩn. Những chúng sanh đang bị đày đoạ trong những địa ngục u ám. Những chúng sanh ngạ quỷsống hàng trăm năm trong những đô thị đói khổ không có gì ăn ngoài đờm giải. Những chúng sanh xấu xí, bẩn thỉu nơi những só xỉnh nào đó. Nhũng chúng sanh đang bị những tai nạn thê thảm trong xã hội loài người. Những chúng sanh tuyệt vọng vì một cái gì đó trong đời sống đang đổ vở. Hàng triệu chúng sanh chung quanh ta đầy bất hạnh.
Đừng bao giờ nghi ngờ một chúng sanh nào đó đang hảm hại ta Đừng ghét hận một chúng sanh nào đó đang làm tổn hại ta. Đừng bao giờ nhìn một chúng sanh nào đó với đôi mắt thiếu thiện cảm. Vì nếu chúng ta có thái độ xấu ác với ai đó chắc chắn chúng ta sẽ chiu cảm những điều như vậy đến với mình ngay. Đó là định luật tương ưng của cuộc sống. Con người mình sẽ được phản xạ lại những điều gì mình suy nghỉ hay hành động đến người khác. Đó là hình thức tựnhiên sống động của con người.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.10/4/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.
|
No comments:
Post a Comment