Monday 28 November 2011

Hướng dẫn hành trì Pháp tu Kim Cang Tát Đỏa
HƯỚNG DẪN HÀNH TRÌ PHÁP TU KIM CANG TÁT ĐỎA BÁCH TỰ CHÚ
Dựa theo bài giảng của
Ven.Sonam Tenzin Rinpoche

Instruction on Visualisation
100 Syllable Vajrasatva Mantra Purification Practice

based on the teachings by Ven. Sonam Tenzin Rinpoche
Ghi Chú:

Đây là phần chi tiết quán tưởng do ngài Sonam Tenzin Rinpoche hướng dẫn, cần hành trì chung với Nghi Quĩ Hành Trì Kim Cang Tát Đỏa. Pháp tu này mọi người đều có thể hành trì, nhưng để có thể có hiệu năng tối đa, cần thọ pháp truyền khẩu và trực tiếp nghe hướng dẫn hành trì từ vị thầy chân chính đủ khả năng truyền pháp.
Hồng Như Thubten Munsel thông dịch và biên tập. Tháng 05, 2010.

------------------------------------------------------------------------------
Vì là pháp sám hối, hãy quán thân mình trong thân tướng bình thường. Trên đỉnh đầu xuất hiện chữ PAM màu trắng.
PAM biến thành đài sen ngàn cánh màu trắng (không còn chữ PAM).
Trên đài sen hiện ra chữ AH màu trắng biến thành đài mặt trăng (không còn chữ AH).
Trên đài sen và đài mặt trăng xuất hiện chữ HUM màu trắng. HUM biến thành chùy kim cang màu trắng (không còn chữ HUM).
Giữa chùy kim cang có chữ HUM màu trắng.
Từ chữ HUM trắng giữa chùy kim cang phóng ra ánh sáng lớn chói ngời khắp mười phương. Theo luồng ánh sáng đó các Daka và Dakini mang phẩm vật cúng dường hương hoa đèn nhạc v.v... dâng lên chư Phật mười phương. Chư Phật mười phương hoan hỉ nhận phẩm vật cúng dường, sau đó mười phương Phật Pháp Tăng tan thành ánh sáng tan vào các vị Daka, Dakini và các Daka, Dakini tan trở lại thành ánh sáng, theo luồng ánh sáng đó trở về chùy kim cang có chữ HUM trắng giữa chùy.
Một lần nữa chữ HUM trắng giữa chùy kim cang phóng tỏa ánh sáng mang sự gia trì của chư Phật mười phương xuống khắp sáu cõi, đặc biệt là ba cõi địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh, tịnh hóa mọi ác nghiệp, ác chướng của chúng sinh ở đó. Khi chúng sinh trong ba cõi này được tịnh hóa hết ác nghiệp ác chướng thì ba cõi này biến thành các cõi Tịnh độ và chúng sinh ở đó biến thành Đức Kim Cang Tát Đỏa, tan thành ánh sáng và theo luồng ánh sáng đó trở về chùy kim cang và chữ HUM màu trắng trên đỉnh đầu ta.
Chùy kim cang và chữ HUM màu trắng (ở giữa chùy kim cang) nằm trên đài sen trên đỉnh đầu ta biến thành Đức Kim Cang Tát Đỏa như trong hình trên sadhana.
Trong pháp sám hối, Đức Kim Cang Tát Đỏa ngồi trong tư thế chân trái thu vào, chân phải đưa ra đặt trên đài sen, chạm vào đỉnh đầu ta. Đức Kim Cang Tát Đỏa ánh sáng trắng, một mặt, hai tay, tay phải cầm chùy kim cang nơi tim, tay trái cầm chuông nơi bụng. Ngài đeo đầy đủ 6 món trang sức [mũ miện, bông tai, chuỗi dài, chuỗi ngắn, thắt lưng, vòng tay chân v.v...] tượng trưng cho sáu hạnh ba la mật.
Từ Đức Kim Cang Tát Đỏa tỏa sáng chói ngời như hàng trăm mặt trời phản chiếu trên đỉnh núi tuyết. Sau đó, khi mọi sự hiện ra rõ ràng rồi, ta quán tưởng trên đỉnh đầu của Đức Kim Cang Tát Đỏa xuất hiện chữ OM màu trắng tượng trưng cho Hóa thân, nơi cổ có chữ AH màu đỏ tượng trưng cho Báo thân, thấp hơn vùng tim một chút có chữ HUM màu xanh dương tượng trưng cho Pháp thân.
Ngay giữa tim ngài [ngang vùng tim ở chính giữa ngực] có đài sen màu trắng, trên đó có chữ HUM đứng màu trắng. Xung quanh chữ HUM là chuỗi bách tự chú (các chủng tự được xếp ngược chiều kim đồng hồ, khi xoay sẽ xoay theo chiều kim đồng hồ). Hai chữ của chuỗi minh chú không dính vào nhau, giữa hai chữ có khe hở, tỏa ánh sáng trắng.
Bấy giờ ta hướng về đức Phật Kim Cang Tát Đỏa cất lời khẩn nguyện như sau:
[đọc Nghi Quĩ câu p.32] "Lạy đức bổn sư / Kim Cang Tát Đỏa,/ xin ngài hoan hỉ / quét sạch ác nghiệp, / ác chướng, phạm giới / cùng mọi phá giới, / của con, cùng với / chúng sinh nhiều như / không gian vô tận.”

Nhờ lời thỉnh cầu chân thành, chữ HUM nơi tim đức Kim Cang Tát Đỏa phát ra nguồn ánh sáng vô tận, phóng ra cùng tận không gian thỉnh mời chư Phật đà bồ tát của khắp cả mười phương ba thời, theo luồng ánh sáng cam lồ [tựa vô số hạt tuyết trắng ngần] tan về lại vào trong chữ HUM.
Rồi ánh sáng từ chữ HUM lại thêm một lần nữa phóng ra, xuống ba cõi thấp, tịnh hóa nghiệp chướng của chúng sinh nơi đó, tất cả tan vào tánh không, trở thành đức Phật Kim Cang Tát Đỏa, rồi theo luồng ánh sáng tan về lại vào trong chữ HUM.
Từ đó chuỗi minh chú khởi xoay theo chiều kim đồng hồ. Ta bắt đầu tụng chú ở đây. Trong khi tụng chú và chuỗi minh chú xoay, ánh sáng cam lồ trắng như sữa non từ chuỗi minh chú ứa ra. Đây là suối cam lồ như ý, dần dần rót đầy toàn thân Đức Kim Cang Tát Đỏa, trào ứa ra từ ngón chân cái bên phải của ngài, rót xuống đỉnh đầu ta (ngón chân này chạm đỉnh đầu ta), tịnh hóa mọi ác nghiệp thân, khẩu, ý của ta. Chất cam lồ như ý rót vào thân ta, tẩy rửa và tống hết mọi nhiễm uế ra các lỗ dưới: tật bệnh bị tống ra dưới dạng máu mủ hôi thối, ám chướng dưới dạng nhện, bò cạp, rắn rết, ác nghiệp ác chướng dưới dạng bùn dơ, bụi khói. Mặt đất bên dưới nẻ ra, vô số oan gia trái chủ (là chúng sinh mà ta từng gây tổn hại tạo nợ máu với họ) vươn tay, há miệng đòi nợ cũ. Suối cam lồ tống hết uế nhiễm từ thân ta chảy xuống, biến thành chất cam lồ, hoàn thành mọi ước nguyện cho họ. Các oan gia trái chủ hưởng suối cam lồ như ý, hoàn toàn thỏa mãn.
Vừa tụng chú vừa tiếp tục quán tưởng như vậy. Nếu quán không xuể thì chia ra mỗi lúc quán một phần, khi thì quán chủng tự HUM và chuỗi minh chú xoay, ánh sáng cam lồ chảy xuống; khi thì quán sắc tướng của đức Kim Cang Tát Đỏa với đủ mọi trang sức quí báu; khi thì quán ánh sáng cam lồ từ ngón chân đức Kim Cang Tát Đỏa rót vào đỉnh đầu ta, ban đầu từng giọt, sau thành cả một dòng suối cam lồ tuôn chảy, gột sạch mọi tật bệnh, ác nghiệp, ác chướng; khi thì quán oan gia trái chủ dưới lòng đất hưởng dòng cam lồ từ thân ta chảy xuống v.v...
Tụng chú lúc đầu đọc chậm, về sau đọc nhanh. Nếu đọc chú Trăm Âm khó quá thì có thể đọc chú Sáu Âm [Ôm Ben-Dza Xa-tô Hung], nhưng đọc Trăm Âm vẫn tốt hơn.
CHÚ TRĂM ÂM:
OM, VAJRASATTVA SAMAYA MANUPALAYA, VAJRASATVA TVENOPA TISTHA DRDHO ME BHAVA / SUTOSYO ME BHAVA, SUPOSYO ME BHAVA, ANURAKTO ME BHAVA, SARVASIDDHIM ME PRAYACCHA SARVA KARMASU CA ME CITTAM SRIYAH KURU HUM, HA HA HA HA HOH, BHAGAVAN, SARVATATHAGATA VAJRA MA ME MUNCA, VAJRI BHAVA, MAHASAMAYA SATTVA, AH
Ghi Chú: chú này có thể phát âm theo tiếng Tây Tạng theo âm đọc của Sonam Tenzin Rinpoche, như sau: Ôm ben-dza xa-tô xa-mai-da / ma-nu-pa-lai-da / bendza xa-tô tê-nô-pa / tít-ta đri đô mê ba-wa / xu-tô-cai-ô mê ba-wa / xu-pô-cai-ô mê ba-wa / a-nu-rắt-tô mê ba-wa / xạt-wa xi-đim mê tra-yê-dza / xạt-wa-cạt-maxu dza mê / xư-tam shri-i-da / ku-ru hum / ha ha ha ha hô / băng-ga-wê / xạt-wa ta-ta-ga-ta / ben-dza ma mê mun-dza / ben-dza ba-wa ma-ha sa-mai-da / xa-tô, A
[Đọc cách nào cũng được, không tạo trở ngại cho công phu tụng chú]
Để kết thúc thời công phu, hãy quán tưởng nhờ ánh sáng cam lồ gột rửa, thân ta bây giờ trong như pha lê, không còn thành phần máu thịt. Oan gia trái chủ dưới đất đều mãn nguyện, hoan hỉ, thu tay ngậm miệng, tịnh hết nghiệp chướng, vãng sinh Tịnh độ. Mặt đất khép lại, cam lồ thôi không chảy xuống, dâng lên trong thân thể ta, từ chân dâng đến đỉnh đầu, trào ra và chạm vào ngón chân của Đức Kim Cang Tát Đỏa.
Ở điểm này phải có khái niệm là mọi ác nghiệp ác chướng của ta trong ba thời quá khứ, hiện tại và tương lai đều được tịnh hóa và phải áp dụng bốn năng lực sám hối. Nếu không có bốn năng lực sám hối này thì cho dù quán tưởng rõ ràng thế nào chăng nữa, việc sám hối của ta sẽ không có kết quả. Bốn năng lực đó là:
1. Năng lực nền tảng: nương tựa vào Đức Phật Kim Cang Tát Đỏa,
2. Năng lực hối cải: hối hận lỗi lầm phạm phải trong cả ba thời quá khứ hiện tại và tương lai,
3. Năng lực quyết tâm không tái phạm, và
4. Năng lực thực hành công phu sám hối, ở đây là thực hành pháp tu Kim Cang Tát Đỏa.
Có đủ bốn năng lực này thì sự sám hối của ta mới có kết quả.
Vậy khi kết thúc thời công phu sám hối, ngưng tụng chú Trăm Âm, bắt đầu tụng 100 lần chú Sáu Âm: Ôm Ben Dza Xát Tô Hum. Dùng thời gian này để quán về bốn năng lực sám hối và đọc Nghi Quĩ p.36, p.37, p.38:
Lạy đấng chở che / Con vì không biết / ở trong vô minh / đã đi ngược và / phá phạm giới nguyện / mật thệ của con, / đạo sư hộ trì / xin cho con về / nương dựa nơi thầy.
Lạy đấng tối thượng / tay cầm Kim Cang, / là đấng thiện xảo / của tâm đại bi / là đấng Thế Tôn, / đệ tử qui y, / phát lộ tất cả, / giới nặng, giới nhẹ / con đã phá, phạm / qua thân khẩu ý.
Xin Phật gia trì / cho con sám hối / thanh tịnh ác nghiệp / ác chướng phạm giới / cùng mọi phá giới.
Đức Kim Cang Tát Đỏa chấp nhận lời thỉnh cầu trên, ngài vô cùng hoan hỉ, mỉm cười và nói: “Hỡi đứa con của gia đình tôn quý, mọi ác nghiệp, ác chướng, phạm giới và phá giới của con đã được tịnh hóa.”
Đức Kim Cang Tát Đỏa tan thành ánh sáng, tan vào đỉnh đầu ta. Quán tưởng thân, khẩu và ý của Đức Kim Cang Tát Đỏa và của ta là một. Ta và Đức Kim Cang Tát Đỏa trở thành bất nhị, không thể phân chia.
Hãy nghĩ rằng: "Đức Kim Cang Tát Đỏa từ bi và trí tuệ như thế nào thì tôi cũng từ bi và trí tuệ y như thế. Đức Kim Cang Tát Đỏa làm được bao nhiêu công hạnh thì tôi cũng làm được bấy nhiêu công hạnh." Giữ ý thức như vậy trong khi đi, đứng, nằm, ngồi. Thân Khẩu Ý của mình và thân khẩu ý của Phật là một. Giữ tri kiến thanh tịnh: mọi người đều là Đức Kim Cang Tát Đỏa, mọi âm thanh đều là minh chú, mọi cảnh vật bên ngoài cùng dân cư bên trong đều là cõi Tịnh độ của Đức Kim Cang Tát Đỏa.
Phát nguyện và hồi hướng, [Nghi Quĩ các câu p118, p.119, p.120]:
Nguyện hồi hướng công đức / cho khắp cả chúng sinh / không chừa sót một ai / đạt quả vị Phật đà, / dấn thân vào con đường / dẫn đến tâm kim cang / vô sinh và thường lạc / của quả vị hợp nhất / phương tiện và trí tuệ.

Nhờ vào công đức này / nguyện tôi sớm thành tựu / chứng ngộ đại thủ ấn / chứng ngộ rồi, nguyện xin / đưa khắp cả chúng sinh / không chừa sót một ai / cùng vào quả vị này.
Xin nương lực gia trì / của các đấng Thế Tôn / thành tựu tam thân Phật; / của pháp tánh bất biến; / của tâm ý tăng bảo / không bao giờ lay chuyển, / nguyện lời nguyện nơi đây / đều trở thành sự thật. HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).

No comments:

Post a Comment