Saturday 29 June 2013

Tiêu đề Tác giả Lượt xem
1 Vai Trò Người Huynh Trưởng GĐPT Việt Nam Giảng Sư: Thích Nguyên Hiền 84
2 10 Phương Pháp Trì Danh Hiệu Phật TT.Thích Nguyên Hiền 277
3 7 Thứ Tâm Thù Thắng TT.Thích Nguyên Hiền 237
4 Hám Sơn Đại Sư Thích Nguyên Hiền 516
5 Phát Tâm Bồ Đề 2 Thích Nguyên Hiền 438
6 Phát Tâm Bồ Đề 1 Thích Nguyên Hiền 683
7 Thuyết Linh Trong lễ Bạt Độ Nhân Lễ bổ Nhiệm Trụ Trì Chùa kim Quang _ĐacLak Thích Nguyên hiền 697
8 Mông Sơn Thí Thực Phần 8 _TT. Thích Nguyên Hiền Giảng Thích Nguyên hiền 397
9 Mông Sơn Thí Thực Phần 7 _TT. Thích Nguyên Hiền Giảng Thích Nguyên hiền 333
10 Mông Sơn Thí Thực Phần 6 _TT. Thích Nguyên Hiền Giảng Thích Nguyên hiền 346
11 Mông Sơn Thí Thực Phần5_TT. Thích Nguyên Hiền Giảng Thích Nguyên hiền 358
12 Mông Sơn Thí Thực Phần 4 _TT. Thích Nguyên Hiền Giảng Thích Nguyên hiền 334
13 Mông Sơn Thí Thực Phần 3 _TT. Thích Nguyên Hiền Giảng Thích Nguyên hiền 455
14 Tri Hành Hợp Nhất _ Thích Nguyên hiền Giảng Phần 1 Thích Nguyên hiền 445
15 Tri Hành Hợp Nhất _ Thích Nguyên hiền Giảng Phần 2 Thích Nguyên hiền 399
16 Tri Hành Hợp Nhất _ Thích Nguyên hiền Giảng Phần 3 Thích Nguyên hiền 392
17 Vai Trò Của Người Phật Tử Trong Thời Đại Mới _ Thích Nguyên Hiền Giảng Thích Nguyên hiền 361
18 Video U Khê Đại Sư - Giảng Sư Thích Nguyên Hiền Thích Nguyên hiền 471
19 Tứ Hoằng Thệ Nguyện TT Thích Nguyên Hiền 660
20 Niệm Phật Và Vu Lan TT . Thích Nguyên Hiền 382 .HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT .( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.3O/6/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT
Tiêu đề Tác giả Lượt xem
21 Đối diện Với Bệnh TT. Thích Phước Tịnh 470
22 Chữa Trị Thân Tâm TT. Thích Phước Tịnh 562
23 Các Hành Vô Thường TT. Thích Phước Tịnh 535
24 Chăm Sóc Giấc Ngủ TT. Thích Phước Tịnh 478
25 Con Đường Hoằng Pháp TT. Thích Phước Tịnh 449
26 Bồ Đề Đạt Ma TT. Thích Phước Tịnh 496
27 Có Pháp Môn Nào (MP3) TT. Thích Phước Tịnh 528
28 Bước Chân Tỉnh Thức (MP3) TT. Thích Phước Tịnh 484
29 Bồ Đề Tâm (MP3) TT. Thích Phước Tịnh 523 .HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.30/6/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.
Tiêu đề Tác giả Lượt xem
11 Buổi Bắt Hạnh Phúc _ TT. Thích Phước Tịnh TT. Thích Phước Tịnh 340
12 Hồi Phục Chủ Quyền _ TT. Thích Phước Tịnh TT. Thích Phước Tịnh 324
13 Hạnh Phúc Từ Bên Trong _ TT. Thích Phước Tịnh TT. Thích Phước Tịnh 362
14 Đuổi Bắt Hạnh Phúc _TT. Thích Phước Tịnh TT. Thích Phước Tịnh 352
15 Tín Tâm Minh _ TT .Thích Phước Tịnh Giảng TT. Thích Phước Tịnh 503
16 Kinh Bốn Mươi Hai Chương _ TT Thích Phước Tịnh Giảng TT. Thích Phước Tịnh 588
17 Tỳ Ni Nhật Dụng TT. Thích Phước Tịnh 631
18 Giải Trừ Tâm Hiềm Hận TT. Thích Phước Tịnh 443
19 Chứng Thật Tướng (MP3) TT. Thích Phước Tịnh 612
20 Đức Phật Giữa Nhân Gian TT. Thích Phước Tịnh 479 .HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.30/6/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.
Tiêu đề Tác giả Lượt xem
21 Hoa Sen Trong Đạo Phật MP3 HT Thích Tâm Thanh 663
22 Diệu Lực Quán Thế âm MP3 HT Thích Tâm Thanh 605
23 Cửa Vào Diệu Pháp MP3 HT Thích Tâm Thanh 542
24 Con Đường Tu Niệm MP3 HT Thích Tâm Thanh 619
25 Con Đường Giải Thoát MP3 HT Thích Tâm Thanh 1358
26 Bồ Tát Thật Nghĩa MP3 HT Thích Tâm Thanh 607 .HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.30,6.2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.
Tiêu đềTác giảLượt xem
1 Thủ Lăng Nghiêm (MP3) Lược Giảng HT Thích Tâm Thanh 1662
2 Kinh Pháp Hoa (MP3) P41 Tiếp Theo HT Thích Tâm Thanh 1173
3 Kinh Pháp Hoa (MP3) P22 Tiếp Theo HT Thích Tâm Thanh 851
4 Kinh Pháp Hoa (MP3) Tiếp Theo P12 HT. Thích Tâm Thanh 870
5 Kinh Pháp Hoa (MP3) HT. Thích Tâm Thanh 9853
6 Duy Thức Học HT. Thích Tâm Thanh 2252
7 Tưởng Niệm Bồ Tát Quảng Đức HT Thích Tâm Thanh 641
8 Ý Nghĩa Vu Lan Báo Hiếu (MP3) HT Thích Tâm Thanh 1128
9 Ý Nghĩa Sám Hối (MP3) HT Thích Tâm Thanh 927
10 Ý Nghĩa Hoa Sen (MP3) HT Thích Tâm Thanh 917
11 Tương Quan Sống Chết (MP3) HT Thích Tâm Thanh 797
12 Thất Bồ Đề Phần (MP3) HT Thích Tâm Thanh 1093
13 Tại Gia Bồ Tát Giới (MP3) HT Thích Tâm Thanh 811
14 Sống Và Chết (MP3) HT Thích Tâm Thanh 771
15 Quê Hương Tôi (MP3) HT Thích Tâm Thanh 773
16 Phật Pháp Tóm Kết (MP3) HT Thích Tâm Thanh 654
17 Phật Đản MP3 HT Thích Tâm Thanh 740
18 Làm Sao Tránh Mặt Diêm Vương MP3 HT Thích Tâm Thanh 764
19 Kinh Pháp Bảo Đàn MP3 HT Thích Tâm Thanh 2538
20 Hướng Về Giải Thoát MP3 HT Thích Tâm Thanh .HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.30/6/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT. 707

Thursday 27 June 2013

  • Thủ Lăng Nghiêm (MP3) Lược Giảng
  • Kinh Pháp Hoa (MP3) P41 Tiếp Theo
  • Kinh Pháp Hoa (MP3) P22 Tiếp Theo
  • Kinh Pháp Hoa (MP3) Tiếp Theo P12
  • Kinh Pháp Hoa (MP3)
  • Tin cũ hơn:

    Bài viết trong chuyên mục‘Thập Nhị Tứ Hiếu":

    Nhi Thap Tu Hieu – Tap 24

    Nhi Thap Tu Hieu – Tap 23

    Nhi Thap Tu Hieu – Tap 22

    Nhi Thap Tu Hieu – Tap 21

    Nhi Thap Tu Hieu – Tap 20

    Nhi Thap Tu Hieu – Tap 19

    Nhi Thap Tu Hieu – Tap 18

    Nhi Thap Tu Hieu – Tap 17

    Nhi Thap Tu Hieu – Tap 16

    Nhi Thap Tu Hieu – Tap 15

     
    • Trang 1 / 3
    • 1
    • 2
    • 3
    • >.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.28/6/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.
    Khái quát về Tứ Diệu Đế
    Trình bày: Pháp Âm Thường Chuyển | Thể loại khác | 128kb/s
    Đăng bởi: Không Biết | Ngày đăng: 12:47 trưa 23/09/2011 | Lượt nghe: 1.678

    Đạo Đế tứ niệm xứ

    Trình bày: Pháp Âm Thường Chuyển | Thể loại khác | 128kb/s
    Đăng bởi: Không Biết | Ngày đăng: 1:11 trưa 23/09/2011 | Lượt nghe: 1.179

    Tập đế (TT)

    Trình bày: Pháp Âm Thường Chuyển | Thể loại khác | 128kb/s
    Đăng bởi: Không Biết | Ngày đăng: 1:00 trưa 23/09/2011 | Lượt nghe: 504

    Đạo Đế tứ chánh cần

    Trình bày: Pháp Âm Thường Chuyển | Thể loại khác | 128kb/s
    Đăng bởi: Không Biết | Ngày đăng: 1:13 trưa 23/09/2011 | Lượt nghe: 505

    Khổ Đế

    Trình bày: Pháp Âm Thường Chuyển | Thể loại khác | 128kb/s
    Đăng bởi: Không Biết | Ngày đăng: 12:50 trưa 23/09/2011 | Lượt nghe: 1.038

    Diệt Đế

    Trình bày: Pháp Âm Thường Chuyển | Thể loại khác | 128kb/s
    Đăng bởi: Không Biết | Ngày đăng: 1:05 trưa 23/09/2011 | Lượt nghe: 122

    Tập Đế

    Trình bày: Pháp Âm Thường Chuyển | Thể loại khác | 128kb/s
    Đăng bởi: Không Biết | Ngày đăng: 12:53 trưa 23/09/2011 | Lượt nghe: 169

    Diệt Đế (TT)

    Trình bày: Pháp Âm Thường Chuyển | Thể loại khác | 128kb/s
    Đăng bởi: Không Biết | Ngày đăng: 1:09 trưa 23/09/2011 | Lượt nghe: 240.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.28/6/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.
    Đạo Đế tứ chánh cần
    Trình bày: Pháp Âm Thường Chuyển | Thể loại khác | 128kb/s
    Đăng bởi: Không Biết | Ngày đăng: 1:13 trưa 23/09/2011 | Lượt nghe: 504

    Đạo Đế tứ niệm xứ

    Trình bày: Pháp Âm Thường Chuyển | Thể loại khác | 128kb/s
    Đăng bởi: Không Biết | Ngày đăng: 1:11 trưa 23/09/2011 | Lượt nghe: 1.179

    Tứ Chánh Cần (Bài 7)

    Trình bày: Lệ Thủy - Châu Thanh - Dương Đình Trí | Việt Nam | 128kb/s
    Đăng bởi: Thu Thảo | Ngày đăng: 8:12 sáng 27/03/2013 | Lượt nghe: 16.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.28/6/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.

    Saturday 22 June 2013

    Lục Căn - Lục Trần - Lục Thức.

    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here


    Vì chúng ta bị si mê nên tạo ra căn nghiệp và chính những nghiệp lực nầy đã lôi kéo chúng ta đi vào vòng luân hồi sanh tử. Những nghiệp căn nầy đã dẫn dắt chúng ta trèo lên tuột xuống trong sáu nẽo luân hồi. Do đó nếu muốn hết sanh tử, thì chúng ta phải phá tan cái nghiệp nầy. Nhưng muốn dứt bỏ được cái nghiệp, thì trước hết chúng ta phải chinh phục nơi tâm mình, và phải dẹp bỏ vọng tưởng. Nhưng từ trước đến giờ chúng ta thường hay lầm vọng tưởng là tâm của mình. Chính sự lầm lẫn sai lạc này nên các vọng tưởng dẫn chúng ta chạy ngược chạy xuôi không biết bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp.

    Vậy vọng tưởng phát xuất từ đâu?

    Khi thân tứ đại được phát sinh, thì Lục căn cũng dựa vào đó mà phát triển. Vậy thế nào là Lục căn? Căn là chỗ nương tựa, làm gốc cho những cái khác nẫy nở, tạo thành. Lục căn thì gồm có:

    ¨     Nhãn là mắt, dùng để nhìn.

    ¨     Nhĩ là tai, dùng để nghe.

    ¨     Tỷ là mũi, dùng để ngửi.

    ¨     Thiệt là lưỡi, dùng để nếm.

    ¨     Thân là da bọc thân người, dùng để nhận biết những cảm giác như nóng, lạnh..

    ¨     Ý là tư tưởng, dùng để phân biệt.

    Chung quanh chúng ta  có biết bao nhiêu là hiện tượng, vật thể, biến đổi không ngừng cũng như chi phối từ tư tưởng đến hành động của chúng ta từng giây từng phút và chúng ta gọi nó là “trần”. Như thế, trần có nghĩa là buị, mà đã là bụị thì dơ bẩn và luôn luôn đổi dời. Trần ở đây cũng còn có nghĩa là phần vật chất, hay những cảnh vật chung quanh con người. Chúng ta gom lại được 6 trần nên gọi là lục trần:

    v   Sắc: là màu sắc, hình dáng.

    v   Thanh: là âm thanh phát ra.

    v   Hương: là mùi vị.

    v   Vị: là chất vị do lưỡi nếm được.

    v   Xúc: là cảm giác như cứng, mềm, nóng, lạnh.

    v   Pháp: là những hình ảnh, màu sắc, hương vị được lưu lại từ 5 trần ở trên.

    Khi Lục căn (six sense organs) tiếp xúc với Lục trần (six sense objects), có nghĩa là: mắt thấy được hình ảnh nào, mũi ngửi được mùi thơm nào đó, lưỡi nếm được chất chua, cay hay ngọt, tai nghe được điệu nhạc êm đềm, thân thì cảm thấy đau đớn, hay lạnh lẽo, còn ý thì bắt đầu suy nghĩ, thì ký ức của chúng ta phát sinh ra sự phân biệt. Và chính sự phân biệt, hiểu biết và phán đoán này được gọi là thức. Cũng như Lục căn, thức cũng có 6 thức nên thường được gọi là Lục thức (six sense of consciousness). Do đó Lục thức gồm có: Nhản thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức  và Ý thức. Tất cả những chủng tử của nghiệp từ nhiều đời trong quá khứ cộng với biết bao nhân duyên để tạo thành con người trong hiện tại mà nhà Phật gọi là Ngũ uẩn. Ngũ uẩn thì có sắc uẩn thuộc về phần thân xác và thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn thì thuộc về phần tâm thức. Vậy ý nghĩa nó thế nào?

    v    Sắc: là thân xác của con người.

    v    Thọ: là những cảm giác vui khổ của thân và tâm.

    v   Tưởng: là nhớ lại những hình ảnh vui khổ của thân và tâm .

    v    Hành: là những sự biến chuyển thay đổi của tâm niệm.

    v    Thức: là sự hiểu biết phân biệt để tạo thành cái biết ở trong tâm.

    Ngũ uẩn tự nó không có được, mà là do nhân duyên kết thành nên tự nó không có tự tánh hay chủ thể tức là vô ngã. Nhưng một khi mà do nhân duyên kết hợp thì nó làm sao cố định cho được. Trước khi nhân duyên hòa hợp nó chưa có, sau khi nhân duyên ly tán thì nó cũng tiêu tan theo.

    Tâm thì dựa theo Lục căn để nhận biết Lục trần và phân biệt thành Lục thức mà Ngũ uẩn thì biến chuyển rất nhanh thành thử Tâm của con người cũng phải chạy theo. Ý niệm đua nhau sinh khởi trong tâm thức của con người. Ý niệm sau thay thế ý niệm trước vì thế mà vọng tưởng không bao giờ dừng lại. Vọng tưởng còn thì chân tâm biến mất.

    Trong 49 năm hành đạo, tôn chỉ của Đức Phật là dạy chúng sinh phải giữ tâm của mình cho được thanh tịnh và loại bỏ tất cả mọi phiền não. Bởi vì vọng tưởng và phiền não biến tâm của chúng ta thành mê muội, mà mê muội là cội nguồn của tham, sân, si.

    Chẳng hạn như hôm nay trên đường đi làm về, chúng ta thấy (nhãn căn) một cô gái đẹp lái chiếc xe màu xanh (sắc trần) lạn qua lạn lại trước mắt của chúng ta. Khi về nhà ngồi yên tịnh thì hình ảnh cô gái hiện lên (nhãn thức) làm cho tâm tư chúng ta xao động. Khi mình nghĩ về những hình ảnh củ nầy thì tư tưởng sẽ phát sinh ra si mê. Nếu sự si mê này không được thỏa mãn thì nó sẽ biến thành căm hận và đây chính là lòng sân đã nổi dậy trong tâm của chúng ta rồi.

    Thật vậy, chính tham, sân, si là đại lộ kinh hoàng để đưa chúng ta vào đường ác nghiệp và làm cho chúng ta mãi mãi trầm luân trong lục đạo luân hồi.

    Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy rằng:

    “Khi thấy,nghe, hay, biết, mà khởi vọng niệm phân biệt, đó là gốc vô minh. Còn khi thấy, nghe, hay, biết mà không khởi vọng niệm phân biệt, đó là Niết bàn”.

    Trong các phiền não, chỉ có sân hận là thô bạo nhất, bởi thế cổ nhân có nói:”Nhứt niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai”, tạm dịch là khi phát sinh một niềm giận hờn tức đã mở muôn ngàn cửa chướng ngại. Tệ hại hơn nữa, một khi tham, sân, si phát khởi, thì dâm, sát, đạo, vọng sẽ phát sinh. Đây là bốn đại ác nghiệp mà người tu Phật phải tránh xa.

    Phật dạy rằng:

    “A Nan, ông tu thiền, nếu không đoạn lòng dâm, thì cũng như người nấu cát muốn cho thành cơm, dầu trãi bao nhiêu kiếp cũng không thành được”.

    Thật vậy, Đức Phật đã tuyệt đối ngăn cấm đệ tử của Ngài về tội gian dâm khi Ngài còn tại thế. Ngày nay chúng ta hảy lắng nghe Đức Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng phát biểu cảm tưởng của ngài khi ngài nói chuyện với tiến sĩ tâm lý học Jack Engler và Giáo sư tâm lý Jean Shinoda Bolen. Chúng tôi xin trích dịch nguyên văn như sau:

    “Thứ nhất là phần lỗi thuộc về nử Phật tử: Vì họ đã dại dột coi các ông thầy như thần thánh, lầm tưởng mọi hành động của ông thầy đều cao thượng, nên tỏ ra tuân phục, cưng chìu các thầy quá đáng, làm cho họ hư hỏng. Điều quan trọng là đừng nên vội vàng coi ai là thầy của mình. Vì đó là mối liên hệ rất quan trọng. PhảI đợi một thời gian dài, có khi cần đến 10 năm, hay lâu hơn thế nữa, để quan sát cách xử sự, cách giảng dạy, khả năng tu hành của kẻ ấy cho thật chính xác. Trong thời gian đó ta chỉ nên coi họ như một người bạn thiện trí thức mà thôi. Không nên tin cậy gì nơi họ hết thảy.

    Nếu Phật tử thấy ông thầy nào hành động bất xứng, không hợp đạo lý, có quyền phê bình ngay những hành động đó. Trong kinh sách, Phật đã dạy rất rõ là : Ta chỉ nên theo học người thầy có tư cách đàng hoàng. Kẻ nào bất xứng , nói những điều trái đạo lý, hành động gian tà, người Phật tử phải lánh xa ngay.  Tóm lại, người Phật tử có trách nhiệm không để bị lôi cuốn vào con đường tội lỗi.

    Còn về phía tăng sĩ thì Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng nói tóm tắt như sau: Về phía người thầy thì họ phải chịu trách nhiệm về những hành xử của mình. Nếu người thầy mà để cho Phật tử quyến rũ vào con đường bất chính, thì người đó đã tỏ ra thiếu nội lực, thiếu nhân cách của kẻ tu hành. Trong khi rao giảng Phật pháp và nhân danh một kẻ tu hành mà chính ông thầy lại phạm những lỗi lầm mà ông ta thường khuyên kẻ khác nên tránh, tức là ông ta đã phản bội công việc mình làm. Thật là một điều đáng xấu hổ.”

    Khi nói về lòng sát hại, thì Phật lại dạy rằng:

    “A Nan, nếu không trừ tâm sát hại mà muốn cầu được đạo, thì cũng như người tu bịt hai lỗ tai của mình, la tiếng thật lớn, mà muốn cho mọi người không nghe thì không thể được”.

    Còn vấn đề trộm cướp, thì Phật dạy rằng:

    “A Nan, nếu không đoạn trừ trộm cướp, mà muốn cầu cho được đạo quả, thì cũng như người rót nước vào chén bể mà muốn cho đầy, dầu trãi bao nhiêu kiếp cũng không thể đầy được”.

    Sau cùng, Ngài thuyết giảng về vọng ngữ:

    “A Nan, nếu các chúng sinh, đã giữ hoàn toàn ba hạnh trên là không sát, đạo, dâm rồi mà còn đại vọng ngữ, thì tâm cũng không thanh tịnh, mất hạt giống Phật. Đại vọng ngữ có nghĩa là chưa đặng đạo mà dám nói mình đặng đạo, chưa chứng quả mà nói mình chứng quả. Đối với người đời hay khoe: Ta đã chứng Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, hay Phật, để trông cầu người lạy cúng. Những người nói dối như thế, làm tiêu hạt giống Phật, sẽ đọa vào trong biển khổ. Cũng như cây Da La khi bị chặt đứt cội rồi, thì không thể mọc chồi đâm tước được”.

    Ngoài ra, còn mối tham nhiểm ăn sâu vi tế mà chúng ta cũng cần lưu tâm. Chẳng hạn như số tiền nhỏ không làm cho tham, nhưng với số bạc lớn khiến cho người phải động tâm. Cũng như sắc đẹp tầm thường thì dễ dàng lướt qua, song giai nhân tuyệt sắc sẽ làm cho người mê lụy. Cho đến các vị tu hành mà còn ham thích chuổi tốt, tượng đẹp, hoặc cảnh lớn chùa to, thì cũng thuộc về tâm tham nhiễm.

    Chúng ta phải nhận thức rằng lục căn, lục thức và lục trần đều là những pháp giả dối, không thật. Thế nhưng lục căn (nội thân) vì có thói quen tiếp xúc với lục trần (ngoại cảnh) bởi vì lục trần luôn luôn có sức hấp dẫn làm lục căn bị mê hoặc. Do đó khi lục thức (ý niệm và tư tưởng) được phát sinh thì trong tâm của chúng ta chất chứa toàn là vọng tưởng, thay đổi không ngừng. Muốn cho lục căn không bị ngoại cảnh (lục trần) cám dỗ thì chúng ta phải giữ cho tâm được hoàn toàn thanh tịnh và loại bỏ mọi chấp trước thì vô minh và vọng tưởng sẽ bị tiêu diệt. Nhớ lại ngày xưa trước khi Đức Phật chứng quả Niết Bàn thì chính Ngài cũng phải chiến đấu ngày đêm với bọn Ma vương. Trong thì có ngũ uẩn ma, pháp hành ma, tứ diệt ma, còn ngoài thì có chư thiên ma.

    Thật vậy, chiến đấu trong nội tâm thì vạn phần khó hơn là chiến đấu ở ngoại cảnh, vì nếu mình giữ lục căn được trong sáng, thì dầu cho lục trần có quyến rũ, hấp dẫn cách mấy, cũng không thể nào thay đổi được minh tâm của chúng ta. Một trong những phương pháp để giữ tâm được trong sạch là thực tập pháp môn “bát chánh đạo”.

    1)   Chánh kiến: là thấy, nghe, hay biết một cách ngay thẳng.

    2)   Chánh tư duy: là suy nghĩ, xét nghiệm chân chính.

    3)   Chánh ngữ: là nói chân thật, công bình và hợp lý.

    4)   Chánh nghiệp: là hành động đúng với lẽ phải, có lợi ích cho chúng sinh.

    5)   Chánh mạng: là sinh sống một cách chân chính bằng nghề nghiệp lương thiện.

    6)   Chánh tinh tấn: là siêng năng làm những việc chánh nghĩa.

    7)   Chánh niệm: là nhớ các điều tội lỗi đã làm để thành tâm sám hối và làm bất cứ việc gì cũng nhớ đến hậu quả việc làm của mình.

    8)   Chánh định: là tập trung tư tưởng vào một vấn đề chính đáng.

    Tóm lại, chúng ta thấy hậu quả vô cùng tai hại do vọng tưởng sinh ra, nó là cội nguồn của tất cả mọi nghiệp báo để cột chặt chúng ta vào bể khổ của luân hồi. Do đó chúng ta phải sáng suốt dùng trí tuệ để đánh tan mọi vọng tưởng, vô minh để đem lại sự thanh tịnh, tinh khiết trong tâm của chúng ta.

    Thêm nữa, nước từ bi mát mẻ sẽ rưới tắt lửa phiền nảo. Tâm nhẫn nhục là áo giáp bền chắc chống lại tất cả mũi tên tam độc. Phật pháp là ánh sáng phá tan khói mù tối tăm. Với những tâm niệm nầy, chúng ta nhứt quyết loại trừ tất cả dục vọng để tăng trưởng sức mạnh ngõ hầu đánh đổ bánh xe luân hồi cay nghiệt để tìm về nơi Cưc lạc.

    “Lửa sân si tam độc, đốt hết rừng công đức

    Muốn hạnh Bồ tát đạo, giữ thân tâm thanh tịnh”.

    Thế nào là thanh tịnh pháp thân?

    Phật dạy:”Thanh tịnh pháp thân là chơn tánh thanh tịnh, không sanh không diệt, không hoại không thành. Vọng tánh của chúng sanh chỉ thấy nhục thân mà không thấy pháp thân. Tại chổ phàm phu gọi là tâm tánh, tại nơi thánh hiền gọi là thánh tánh, trong cõi trời đất gọi là thiên tánh. Tới chỗ Bồ tát gọi là Phật tánh và tại chổ chư Phật gọi là thanh tịnh pháp thân”.

    Nguyên nhân của sự đau khổ bắt nguồn từ bản ngã vì nó vốn có khuynh hướng phân biệt và từ đó nẩy sinh ra các tham vọng, ái dục.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.23/6/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.

    Sự Tích Kinh Lăng Nghiêm.

    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here


    Ở Ấn Độ khi xưa vào thời Đức Phật còn tại thế, mùa mưa thường kéo dài có khi đến vài tháng. Chính trong thời gian nầy, các chư tăng tề tựu đông đủ để nghe Đức Phật thuyết giảng và tham thiền nhập định. Thời gian nầy được gọi là ba tháng an cư kiết hạ. Sau đó, chư tăng cũng như Phật mỗi người đi mỗi ngã để lo hoằng dương đạo pháp và họ chỉ trở lại đây trước mùa mưa năm tới.

    Một hôm, nhân mùa mãn hạ, cũng là ngày húy nhật của vua cha, nên vua Ba-tư-nặc sắm sửa nhiều món chay đặc biệt và chính thức nhà vua đi mời Đức Phật cùng chư tăng đến để cúng dường. Ngoài ra, các hạng trưởng giả  cũng sắm đủ thức cơm chay để cung thỉnh chư tăng đến cúng dường. Phật bảo ngài Văn Thù Bồ tát chia chư tăng ra làm nhiều nhóm để đi từng nhà thọ cúng.

    Trong lúc ấy, ông A Nan vì đã chịu người thỉnh riêng trước, nên trở về chẳng kịp để dự vào hàng chúng tăng thọ cúng. Ông mang bình bát đi vào thành, oai nghi tề chỉnh, dáng điệu chậm rãi, qua từng nhà để khuất thực. Với tâm bình đẳng, ông muốn làm phước điền cho tất cả mọi người, không phân biệt quý phái hay hạng bình dân. Ông chỉ mong gặp những người chưa làm phước, để hôm nay họ có cơ hội phát tâm cúng dường, như thế giúp họ gieo nhân tốt để ngày sau họ gặt lấy quả hiền. Vì nghĩ như thế, nên ông rảo bước vào các xóm làng, nhưng không may ông gặp một người đàn bà ngoại đạo có tên là Ma-đăng-già đã dùng thuật thần chú của Ta Tỳ Ca La tiên Phạm Thiên để bắt ông vào phòng định giở trò dâm dục.

    Ông A Nan đang bị nạn, hết sức buồn rầu, chỉ còn chắp tay niệm Phật và hướng về Đức Chí Tôn để cầu cứu. Đức Phật cảm ứng được, nên khi vừa thọ trai xong không kịp thuyết pháp, Ngài liền trở về tịnh xá ngồi kiết già, phóng hào quang có hoa sen ngàn cánh và bắt đầu nói thần chú Lăng Nghiêm. Sau đó, Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi đem thần chú ấy đi đến chổ nàng Ma-đăng-già để phá trừ tà chú cứu nạn cho A Nan.

    Sau khi được thoát nạn, ông A Nan về đến chổ Phật cúi đầu kính lạy, buồn tủi, khóc than và bạch với Phật rằng:

    “Bạch Đức Thế Tôn! Con từ hồi nào đến giờ có lòng ỷ lại bởi vì con là em của Phật, được Phật thương yêu, chắc chắn Phật sẽ ban cho con thần thông trí tuệ, hay đạo quả Bồ đề, nên chỉ lo học rộng nghe nhiều, mà không chịu tu niệm, không ngờ đạo Phật ai tu nấy chứng. Mặc dầu con là em của Phật, nếu không tu thì cũng chẳng ích gì! Cúi xin Phật rộng lòng từ bi, chỉ dạy cho con phương pháp nào mà mười phương chư Phật tu hành đều được thành đạo chứng quả”.

    Nội dung của kinh Lăng Nghiêm là Phật chỉ dạy cho chúng sinh ngộ được chơn tâm. Bởi vì chúng sinh không ngộ được chơn tâm nên phải vỉnh viễn làm kiếp chúng sanh, trầm luân trong biển sanh tử và chịu không biết bao nhiêu khở sở. Còn Chư Phật thì đã thoát ly sanh tử luân hồi, được tự do giải thoát, thần thông tự tại, trí huệ vô biên cũng bởi các Ngài đã ngộ được chơn tâm.

    Nói một cách khác là Phật với chúng sanh cùng đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng các Ngài đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy, nên mới thành Phật. Trái lại, chúng sanh vì mê muội thể tánh chơn tâm, nên phải bị sanh tử luân hồi. Nếu chúng ta giác ngộ chơn tâm thì chúng ta sẽ được như Phật. Ngộ được chơn tâm như người thức giấc mộng, không ngộ được chơn tâm như người còn ngủ chiêm bao.

    Vì kinh Lăng Nghiêm quý giá như thế, nên thủa xưa các vị vua Ấn Độ xem nó như là quốc bảo và  không cho truyền bá kinh nầy ra ngoài. Chúng ta còn nhớ, tiền nhà Đường có ngài Huyền Trang (Đường Tam Tạng) qua Ấn Độ và ở tại đây rất nhiều năm để thỉnh biết bao bộ kinh mà chúng ta thấy hiện nay, nhưng chính ngài cũng không hề biết ở Ấn Độ còn có bộ kinh Lăng Nghiêm. Cũng trong thời gian nầy, ở bên Trung quốc có vị Trí Giả Đại sư, là vị Tổ của Tông Thiên Thai, đã dùng kiến thức của ngài để phát minh ra môn Tam Chỉ Tam Quán. Khi ngài Trí Giả Đại sư thuyết giảng về môn Tam Chỉ Tam Quán nầy cho vị sư của Ấn Độ khi ông đến thăm núi Thiên Thai, thì vị sư người Ấn Độ tiết lộ rằng môn Tam Chỉ Tam Quán gần giống như kinh Thủ Lăng Nghiêm ở bên Ấn Độ. Từ đó người Trung Quốc mới biết hiện còn một bộ kinh nửa mà họ chưa được biết đến. Ngài Trí Giả Đại sư khát vọng muốn có cơ hội để xem cho được bộ kinh nầy, nên ngài mỗi ngày hai lần sớm chiều xây mặt về phía Tây (Ấn Độ) quỳ lạy cầu khẩn liên tiếp trong 18 năm cho Kinh Lăng Nghiêm được sớm truyền bá sang Trung quốc.

    Khoảng 100 năm sau, trong thời đại của Vỏ Tắc Thiên hoàng đế, có ngài Bất Lạc Mật Đế, người Ấn Độ, đã hai lần tìm cách đem kinh Lăng Nghiêm sang truyền bá cho Trung Hoa, nhưng vì luật quá khắt khe nên không thể nào đạt được. Đến lần sau cùng, Ngài viết kinh trong miếng lụa mỏng, rồi cuốn lại, xẻ bắp vế nhét vào, băng lại như người có ghẻ, mới thành công đem ra được.

    Ngài Bất Lạc Mật Đế dùng đường biển để đến Quảng Châu. Khi đến đất Nam Thuyên thì ngài gặp cư sĩ Phòng Dung. Cư sĩ Phòng Dung lúc còn trẽ làm đến chức Thừa tướng cho hoàng đế Vỏ Tắc Thiên, nhưng vì phạm lỗi lầm nên bị thuyên chuyển đến làm quan ở đất Nam Thuyên nầy. Vì làm đại quan, nên ông là bậc bác học uyên thâm và cũng là người rất hâm mộ Phật pháp. Khi nghe ngài Bất Lạc Mật Đế nói về kinh Lăng Nghiêm, thì ông hết sức vui mừng, nhưng khi mở tấm lụa ra thì máu me bám lấy lâu ngày làm mất cả chữ nghĩa. May thay, phu nhân của ngài Phòng Dung đem cuốn lụa ấy nấu với một chất hóa học, thì máu mủ đều theo nước mà tan đi, chỉ lưu lại các nét mực mà thôi.

    Ngài Phòng Dung thỉnh ngài Bất Lạc Mật Đế dịch kinh từ chữ Phạn ra chữ Hán. Ngài Mật Đế thì dịch, còn quan Phòng Dung lại phụ âm, thành thử kinh Lăng Nghiêm chẳng những nghĩa lý rất hay mà văn chương còn tuyệt diệu. Từ xưa các học giả, không nhất thiết là trong đạo Phật, mà cả đạo Nho, mỗi khi xem đến kinh Lăng Nghiêm đều kính phục và vô cùng khen ngợi cái nghĩa lý cao siêu và văn chương tuyệt diệu của kinh.

    Trước khi nói về chơn tâm, Phật gạn hỏi ông A Nan bảy lần về nơi thường trụ của tâm.

    1)   Tâm ở trong thân: Phật nói rằng nếu thật tâm ở trong thân, thì trước hết nó phải thấy tim, gan, ruột, phổi…rồi mới thấy các vật ở bên ngoài. Vậy có ai thấy được tim, gan … của mình chưa?  Do đó tâm ở trong thân là phi lý.

    2)   Tâm ở ngoài thân: Lúc Phật đưa cánh tay ra thì mắt ông A Nan thấy cánh tay và tâm của ông liền phân biệt. Phật nói nếu mắt ông vừa thấy mà tâm ông liền nhận biết, thì thân và tâm không thể rời nhau được. Vì thế nói tâm ở ngoài thân là sai.

    3)         Tâm ẩn trong con mắt: A Nan nói tâm núp trong con mắt; cũng như con mắt của người mang kính, tâm chỉ thấy các cảnh vật bên ngoài, mà không thấy được bên trong. Phật dạy nếu tâm cũng như con mắt người mang kính có thể thấy được cái kính mang, còn tâm ông sao lại không thấy được con mắt của ông? Nếu tâm ông thấy được con mắt của ông, thì con mắt của ông thành ra cảnh bị thấy, nó phải ở ngoài thân ông mới phải. Còn nếu thân tâm ngoài nhau, thì làm sao mắt ông vừa thấy, tâm ông liền nhận biết. Do đó tâm núp sau con mắt cũng không đúng.

    4)         Thân thể của chúng sanh, tạng phủ ở trong, khiếu huyệt (ngũ căn) ở ngoài. Nội tạng thì tối, ngũ căn thì sáng. Nếu mở mắt thấy sáng gọi là thấy bên ngoài, nhắm mắt thấy tối gọi là thấy trong thân. Phật dạy khi A Nan nhắm mắt thấy tối, cái cảnh tối ấy là đối với mắt hay chẳng đối với mắt? Nếu đối với mắt thì tối ở trước mắt, tức ở ngoài thân, sao lại nói ở trong thân? Giả sử cho tối là trong thân thì lúc trong phòng tối chẳng có ánh sáng, những gì trong phòng tối đều là tạng phủ của ông sao? Nói như thế là sai.

    5)         Sự suy nghĩ là tâm: Tâm sanh nên các pháp sanh, pháp sanh nên các tâm sanh. Nay con suy nghĩ, chính cái suy nghĩ ấy là tâm của con, tùy sự suy nghĩ tâm liền có, cũng chẳng ở trong,  ngoài và   chính giữa. Phật dạy là Tâm chẳng có tự thể thì chẳng thể suy nghĩ. Nếu chẳng có tự thể mà suy nghĩ được thì vô căn phải thấy được vô trần, nghĩa nầy chẳng đúng.

    6)         Tâm ở chính giữa: A Nan nói nếu tâm ở trong thân, sao chẳng biết được trong? Còn tâm ở bên ngoài, thì sao thân tâm lại biết nhau? Như thế thì “tâm” chắc ở chính giữa. Phật hỏi ở chính giữa là ở chỗ nào? Ở nơi thân hay ở nơi cảnh? Nếu ở nơi thân, thì tâm phải thấy trước ruột, gan, phèo, phổi ở bên trong. Điều nầy là sai. Còn như ở về cảnh, là có thể nêu ra hay chẳng thể nêu ra? Nếu chẳng thể nêu ra thì cũng như là không có. Còn nếu có thể nêu ra thì không thể nhứt định chỗ nào là chính giữa. Tại sao? Ví như người cắm cây nêu làm chính giữa, nhìn từ phương Đông thì cho cây nêu ở phương Tây, nhìn từ phương Nam thì cho cây nêu ở phương Bắc, cái thế giữa được nêu ra đã lẫn lộn thì tâm cũng thành rối loạn, chẳng rõ ở đâu.

    7)         Cái vô trước là tâm: Cái tâm hiểu biết phân biệt, không ở trong thân, không ở ngoài thân, không ở chính giữa, không ở chổ nào cả, không dính mắc (vô trước) tất cả, đó gọi là tâm? Phật bảo A Nan: Ngươi có cái tâm giác tri chẳng ở chổ nào cả, vậy như các loài bay trên hư không, ở dưới nước và trên bờ, gọi là tất cả vật tượng nơi thế gian mà ngươi không trước đó, là có hay không? Không thì giống như lông rùa sừng thỏ. Nếu có sự không trước thì chẳng thể gọi là không. Không tướng mới không, chẳng không thì có tướng, tâm đã chấp có tướng, thì không thể nói là không trước được.

    Trong phần gạn hỏi, Phật chỉ muốn đưa A Nan đến chổ tự ngộ bởi vì lời Phật chẳng phải là chơn lý. Phật chỉ dùng thuốc giả để trị bịnh giả của A Nan. Tại sao lại nói là bịnh giả? Vì những kiến chấp của A Nan vốn chẳng thật. Tại sao nói thuốc giả? Vì lời phá chấp của Phật cũng chẳng thật. Kỳ thật khi A Nan nói tâm ở trong thân, ở ngoài thân, cho đến nói không trước là tâm, thì không phải có chổ chẳng đúng hay chẳng sai. Nhưng vì ông ta chấp nhất định ở một chổ, nên Phật nói chẳng đúng. Nếu bịnh chấp chưa hết thì có thể nêu ra vô số chỗ, chứ đâu chỉ có bảy chổ thôi? Nếu bịnh chấp đã hết thì một chổ cũng chẳng có, nói gì đến bảy chổ!

    Tự tánh vốn bất nhị, nếu chấp theo lời Phật, cho thật chẳng ở trong là nhị, cho thật chẳng ở ngoài cũng là nhị, cho đến bất cứ có ở một chổ nào , hay chẳng ở một chổ nào đều là nhị. Tại sao? Bởi vì nếu có ở một chổ nầy thì những chổ kia không có, chổ có chổ không tức là nhị. Do đó Phật mới nói: “Phàm hữu ngôn thuyết, giai phi thật nghĩa”, phàm có lời nói thì chẳng phải nghĩa thật.

    Sau khi phá được cái chấp của A Nan, Phật bấy giờ mới từ từ chỉ cái Tâm đến sáu lần. Ban đầu, Phật tạm chỉ các giác quan về phần trực giác như nghe, thấy… là tâm. Khi A Nan đã hiễu rồi thì Phật lại tăng lên một cấp nữa là các giác quan tuy không phải là vọng, nhưng cũng chưa phải là chơn tâm. Cuối cùng Phật nói chỉ có cái Bản thể sanh ra các giác quan mới thật là chơn tâm. Tất cả các pháp đều từ tâm biến hiện, như ngũ uẩn, lục nhập, lục căn, lục trần và lục thức…đều do tâm sanh ra, rồi cũng trở về với thể tánh chơn tâm.

    Tôn giả A Nan và đại chúng trí tuệ được thông suốt, nhận rõ rằng chúng sanh trôi nổi trong vòng sanh tử luân hồi hay chứng được đạo quả Bồ đề an vui giải thoát cũng đều là do ở lục căn. Trong niềm hân hoan của Pháp hội, Phật hỏi như vậy trong sáu căn thì nên tu theo căn nào để đạt được viên thông? Lúc nầy 25 vị đại A la hán, Bồ tát hàng đầu theo thứ tự trình lên Phật những kinh nghiệm tu chứng của mình. Sau cùng Phật hỏi Bồ tát Văn Thù Sư Lợi trong 25 pháp tu đó thì pháp nào thích họp cho ông A Nan cũng như Phật tử căn cơ còn yếu.

    Bồ tát Văn Thù Sư Lợi nói cho A Nan rằng:

    -  A Nan! Ông nên lắng nghe: Tôi vâng oai thần của Phật, nói pháp môn tu hành nầy. Ông đem cái nghe của ông, nghe tất cả pháp môn thâm mật của chư Phật, nhiều như vi trần nếu các phiền não dục lậu không trừ thì cái nghe càng thêm lầm lỗi. Ông biết đem cái nghe của ông, nghe các pháp môn của chư Phật, sao ông không đem cái nghe đó, trở lại nghe ”tánh nghe” (chơn tánh) của mình.

    -  A Nan! “cái nghe” nó không phải tự nhiên sanh, do có tiếng (thính trần) nên mới gọi rằng “nghe”. Nếu xoay cái nghe trở vào tự tánh, không chạy theo tiếng, thế là thoát ly được cái tiếng (thính trần). Lúc bấy giờ cái nghe nầy cũng không còn gọi tên là nghe nữa (vì không còn đối đãi nên chẳng có tên kêu gọi). Một căn (lỗ tai) đã được phản vọng trở về chơn rồi, thì cả sáu căn cũng đều được giải thoát.

    -  A Nan! Các cảm giác: thấy, nghe, hay, biết của ông đó, đều là hư huyễn, như con mắt bị nhặm. Còn ba cõi sum la vạn tượng đây, cũng không thật, đều như hoa đóm giữa hư không. Khi cái thấy, nghe, hay, biết xoay trở lại chơn rồi, thì cũng như con mắt kia hết nhặm. Khi các vọng trần tiêu hết thì tâm ông được thanh tịnh.

    Khi tâm hoàn toàn thanh tịnh rồi, thì cái trí quang sang suốt hiện ra. Lúc bấy giờ chơn tâm ông vừa tịch mịch lại vừa chiếu soi, bao trùm khắp cả mười phương hư không thế giới, lúc bấy giờ ông trở lại xem cảnh vật hiện tiền ở thế gian nầy, cũng như là việc trong chiêm bao. Khi ông được như thế rồi, thì nàng Ma-đăng-già ở trong mộng kia làm gì bắt ông được.

    -  A Nan! Ví dụ như các nhà huyển thuật làm các thứ hình, tuy có thấy cử động, nhưng cốt yếu là tại cái máy rút. Nếu máy kia thôi rút, thì các huyển kia yên lặng, vì nó không có tự tánh. Sáu căn của ông cũng thế, gốc từ nơi tâm, vì vô minh vọng động thành ra sáu căn. Nếu một căn phản vọng về chơn rồi, thì sáu giác quan đều không thành. Nếu trần cấu còn thì ông còn phải tu. Khi trần cấu hết, thì tâm tánh ông được hoàn toàn sang suốt, đó là Phật.

    -  A Nan! Ông chỉ xoay cái nghe của mình trở về chơn tánh, không chạy theo phân biệt vọng trần bên ngoài, thì ông tức thì thành đạo vô thượng. Đây thật là pháp tu viên thông.

    Các Đức Phật nhiều như số vi trần cũng đều do một con đường nầy mà đến cửa Niết Bàn. Hiện tại các vị Bồ tát và những người tu hành đời sau, đều y theo pháp môn nầy mà thành đạo. chính tôi cũng nhờ pháp môn nầy mà được chứng quả, đâu phải chỉ một mình ngài Quán Thế Âm tu theo lối nầy mà thôi. Nay Phật dạy con lựa pháp môn tu hành, để cho người đời sau tu hành mau thành đạo quả, thì duy chỉ có pháp tu của ngài Quán Thế Âm là hơn hết. Còn bao nhiêu các pháp tu hành khác, đều nhờ oai thần của Phật gia hộ mới được thành tựu. Các pháp ấy đều từ nơi sự tướng mà dẹp trừ trần lao, nên không phải là một phương pháp trường kỳ tu tập. Bạch Thế Tôn! Phương pháp nầy rất là dễ tu, mau được thành đạo quả, có thể đem dạy cho A Nan và chúng sanh đời sau, y theo đây tu hành thì hơn các phương pháp khác. Đây là do lòng thành thật của con lựa chọn như thế.

    Thật là một pháp môn tu chứng hoàn toàn, giải thoát rốt ráo, mà Bồ tát Văn Thù Sư Lợi đã thay mặt Phật diễn nói trong kinh Lăng Nghiêm, mang lại vô số lợi ích cho tất cả chúng sanh cũng như các vị Bồ tát mới phát tâm nhờ đó mà tỏ ngộ được chơn tâm. Đối với chúng ta, không phân biệt căn cơ mau chậm, không phân biệt tuổi tác và hoàn cảnh, mọi người, mọi giới và mọi lúc đều có thể áp dụng hạ thủ công phu một cách liên tục pháp môn nầy để tiến đến giải thoát hoàn toàn. Bồ tát Văn Thù quả thật xứng đáng được tuyên xưng là vị Pháp Vương Tử tuyên dương diệu pháp.

    Một thí dụ điển hình là khi mắt chúng ta vừa nhin thấy một chiếc xe đang đậu ngoài đường, thì sự thấy đầu tiên nầy cho chúng ta biết sự vật đó là chiếc xe. Như thế thì khi chúng ta biết đó là chiếc xe thì sự biết chính là chơn tâm. Nhưng khi nhìn kỷ lại thì chúng ta mới nhận định chiếc xe nầy có màu xanh rất đẹp. Khi sự biết chuyển thành phân biệt thì chơn tâm không còn nữa mà được thay thế bằng vọng tưởng. Bởi vì khi thấy chiếc xe thật đẹp thì tâm của ta đang bị si mê và lòng tham cũng bắt đầu nổi dậy. Phật dạy: đây chính là căn nguyên cội rễ của sự khổ đau.

    Một thí dụ khác là ban đêm thanh vắng chợt có người dạo khúc đàn. Khi vừa mới nghe thì chúng ta biết đó là tiếng đàn thì sự biết nầy chính là chơn tâm. Nhưng khi nghe kỷ lại thì tiếng đàn lên xuống rất hay làm cho lòng ta xao xuyến. Khi sự biết chuyển qua thành xao xuyến thì chơn tâm cũng biến thành vọng tưởng. Bởi vì sự biết tiếng đàn không làm tim ta rung động có nghĩa là chơn tâm mà lòng ta xao xuyến có nghĩa là sự si mê đang nổi dậy trong tâm của chúng ta. Mà si mê chính là vọng tưởng.

    Tóm lại sự hay biết của niệm ban đầu chính là chơn tâm. Còn sự phân biệt của những niệm sau chính là vọng tưởng.

    Do đó khi đối diện với ngoại cảnh mà chúng ta không khởi vọng niệm phân biệt theo vọng trần, có nghĩa là chúng ta xoay các giác quan như thấy, nghe, hay, biết trở về với thể tánh chơn tâm. Nếu vọng niệm không khởi thì chơn tâm hiện bày. Trong kinh nầy Phật cũng dạy chúng sinh phải giữ trì giới để tâm được thanh tịnh và nhờ tâm tịnh mới phát sinh ra trí tuệ để phá trừ vô minh. Vô minh hết thì chơn tâm tự hiện bày.

    Sau cùng Kinh Lăng Ngiêm muốn nhắn nhủ với chúng sinh là hằng ngày con người mỗi khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần thì tâm liền phân biệt tạo thành sáu thức. Sáu thức chính là tính thấy, tính nghe, tính nếm…  . Nếu con người chỉ biết sự phân biệt thì vọng tưởng chưa dấy khởi và chân tâm vẫn còn. Ngược lại sau khi biết sự phân biệt tâm liền chạy theo ý niệm của tham-sân-si thì dĩ nhiên chân tâm biến mất và được thay bằng vọng thức. Thí dụ như chúng ta nếm một món ăn thì biết ngay món ăn nầy ngon hay dở. Cái biết ngon dở không có gì tai hại mà những ý niệm sau đó muốn chạy theo món ngon mà chê món dở thì mới tai hại.

    Do đó dầu tâm có phân biệt nhưng nếu tâm không dính mắc thì chân tâm vẫn hiễn bày. Ngược lại sau khi tâm phân biệt mà tâm chạy theo lục trần bên ngoài thì chân tâm biến mất và được thay thế bằng vọng thức mê lầm để đưa con người lún sâu vào sinh tử luân hồi. Trong Kinh Kim Cang Phật dạy rằng:”Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” tức là đừng để tâm mình dính mắc nơi sáu trần thì tâm sẽ được thanh tịnh. Sáu căn của con người cũng ví như sáu cánh cửa của một căn nhà. Nếu chúng ta mở toan sáu cánh cửa thì chắc chắn gió lục trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp sẽ tràn vào trong nhà tức là vọng thức từ sáu trần sẽ tràn vào xâm chiếm tâm thức chúng ta.

    Tâm thức bây giờ được thay thế bằng vọng thức ô nhiễm từ bên ngoài làm tâm bất tịnh khiến tham-sân-si phát khởi liên miên tạo cơ hội cho con người dễ dàng tạo nghiệp. Nên nhớ có nghiệp là còn sinh tử Luân hồi. Chúng ta nên thức tỉnh quay về sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình thì sáu căn sẽ được sáng tỏ tức là sáu căn không còn dính mắc hay tùy thuộc vào những cảnh giới, màu sắc, hương vị…bên ngoài. Thí dụ khi biết rằng ăn để sống thì vấn đề ăn uống không còn quan trọng. Cũng như xe cộ, nhà cửa…chỉ là phương tiện để sống chớ con người không làm nô lệ cho nó thì tâm không còn dính mắc. Đây chính sống với chơn tâm của mình vậy.

    Biết Có là chấp theo cái Có tức là cho sự vật là thật có. Nhưng tất cả vạn pháp đều là vô thường cho nên cái biết Có ấy cũng vô thường hoại diệt. Biết Không là chấp vào cái ngơ. Biết theo hai cái Có, Không là cái biết sanh diệt. Biết thật biết là cái biết của chơn tâm, không kẹt hai bên Có và Không. Đó chính là linh tri, Chơn Tánh của chúng ta vậy.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.23/6/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.

    Quy Y Tam Bảo (The Three Jewels).

    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here


    Giáo lý nhà Phật là một giáo lý cao siêu nhất trên đời nầy. Cho dù đã trải qua mấy nghìn năm mà chưa có một giáo lý nào trên thế giới từ Đông qua Tây có thể so sánh nỗi. Chỉ có Đạo Phật mới có những tôn chỉ đặc sắc như sau:

    1)   Tôn trọng sự công bình và bình đẳng: Đức Phật đã dạy mọi người đều có Phật tính như nhau. Nếu chúng sinh biết phá mê khai ngộ thì ai ai cũng có thể thành Phật được. Có tôn giáo nào khác trên thế gian nầy cho phép tông đồ được ngang hàng với vị giáo chủ của họ chưa?

    2)   Nuôi dưỡng lòng từ bi: Đạo Phật lúc nào cũng khuyến khích mọi người hãy thương yêu tất cả mọi chúng sanh, bao gồm loài người cũng như loài vật. Bởi vì chúng sinh là Phật tương lai và cũng là cha mẹ trong quá khứ do đó chúng ta phải phát tâm Bồ-đề là như vậy.

    3)   Chịu trách nhiệm về việc mình tạo tác: khi đã biết rõ luật nhân hồi nhân quả thì chúng ta phải gánh chịu tất cả mọi nghiệp chướng mà mình đã tạo ra. Một khi thân nầy chết thì ngũ uẩn tan rã và lúc đó chỉ còn tất cả những nghiệp thức để dẫn chúng ta đi đầu thai vào kiếp khác. Chúng sinh càng tạo nghiệp thì càng đi lên đi xuống trong sáu đường và biết đến chừng nào họ mới thoát ra được. Hiểu như thế để giúp chúng sinh hoàn thiện và  tránh làm những điều tội ác. Một khi chúng sinh đã hướng thiện thì chính họ có thể tự biến đổi tất cả nghiệp căn của họ từ ác nghiệp thành thiện nghiệp để có thể cứu cuộc đời của họ ra khỏi vòng sinh tử. Trong khi những tôn giáo khác thì tông đồ phải răm rắp tuân theo những thưởng phạt của bề trên như là một sự ban bố.
    Do đó người tu theo đạo Phật cần phải Quy y Tam Bảo. Vậy thế nào là quy y?

    Quy là trở về. Còn Y là nương tựa. Nhưng chúng ta phải quay về để nương tựa cái gì?

    Trước kia chúng ta chưa biết Phật pháp thành thử chúng ta hành động trong mê mờ điên đảo. Bây giờ đã thấu hiểu những lời Phật dạy thì chúng ta từ trong điên đảo quay trở lại nương tựa vào cái trí tuệ chân thật và nương tựa vào cái Chánh Giác chơn chánh.
    Còn thế nào Tam Bảo?
    Tam Bảo có nghĩa Phật, Pháp, Tăng.
    Vậy quy y tam bảo có nghĩa là quy y Phật, quy y Pháp, và quy y Tăng.

    1)   Quy y Phật: Chúng ta quy y Phật bởi vì Phật là Chánh Giác, Phật là đấng Giác Ngộ, và Phật là Trí tuệ. Nói một cách khác thì khi xưa chưa biết Phật thì chúng ta dùng cảm tình để xử sự đối với mọi người, mà cảm tình là mê muội. Bây giờ  đã biết Phật pháp thì chúng ta phải dùng trí tuệ để đối đãi với người. Luôn luôn lấy lý trí làm chủ thì chúng ta không còn mê nữa. Một khi chúng ta biết nương tựa vào tự tánh giác và nương tựa vào trí tuệ thì đây chính là quy y Phật vậy.

    2)   Quy y Pháp: Khi xưa chúng ta nhìn, chúng ta nghĩ về vật thể, vũ trụ cũng như loài người, loài vật có nhiều điểm sai lầm, không chính xác, mà sai lầm là mê. Nay chúng ta từ trong cái sai lầm mê muội nầy mà quay đầu trở lại để nương tựa vào cách nhìn chính xác và cách nghĩ chính xác. Đây là chính tri chính kiến  và  cũng chính là quy y Pháp.

    3)   Quy y Tăng: Tăng ở đây có nghĩa là sự thanh tịnh. Thanh tịnh là cho đến một hạt bụi cũng không ô nhiễm. Mà cái gì là ô nhiễm? Đã là ô nhiễm thì có nhiều thứ chẳng hạn như: tinh thần ô nhiễm, tư tưởng ô nhiễm, kiến giải ô nhiễm và ngay cả chính thân cũng bị ô nhiễm. Khi đã thấu hiểu Phật pháp thì chúng ta phải tránh xa những thứ ô nhiễm nầy để quay về với thân tâm thanh tịnh. Làm như thế tức là  chúng ta đã quy y Tăng rồi vậy.

    Tóm lại, một khi chúng ta nhập môn theo đạo Phật thì truyền thọ tam quy chính là đem cái nguyên tắc của sự tu hành cũng như những cương lĩnh của sự tu hành mà truyền thọ lại cho chúng ta.          

    Vậy truyền thọ tam quy thì:
    v   Quy y Phật là giác mà không mê.

    v   Quy y Pháp là chánh mà không tà.

    v   Quy y Tăng là tịnh mà không nhiễm.

    Ai có thể truyền thọ tam quy y cho chúng ta?

    Bất cứ là người xuất gia nào mà đã thọ qua Đại giới đều có thể vì chúng sinh mà truyền thọ Tam quy. Bởi vì chúng ta quy y tam bảo là quy y với sự chứng minh của tăng đoàn để bắt đầu xây dựng cuộc đời tu Phật của chúng ta. Cũng như xây nhà, quy y là đổ nền móng cho thật vững chắc, không còn nghi ngại, mê lầm thì cái nhà công đức mới có hy vọng thành tựu được.

    Khi quy y thì chúng ta phải thực lòng mà quay về chớ đừng xem tấm chứng chỉ quy y là quan trọng. Cũng như phải tìm cho được vị thầy nầy mới quy y thì chúng ta vẫn còn bị mê lầm, tà kiến. Nên nhớ tăng đoàn là tận hư không biến pháp giới bởi vì tăng đoàn không nhất thiết phải chỉ là ở trên trái đất của chúng ta hay là trên một quốc gia nào cả. Nhiều người đôi khi hiểu lầm là tôi thì quy y với thầy nầy chớ không quy y với thầy kia. Hiểu như vậy là hoàn toàn mê lầm. Bởi vì bất cứ thầy nào, ở đâu cũng thuộc tăng đoàn mà thôi không hơn, không kém.

    Nguồn đốn ngộ tự tâm xưa nay thanh tịnh, vốn không có phiền não, trí tánh vô lậu sẳn tự đầy đủ. Tâm nầy tức là Phật. Y theo lối nầy mà tu thì gọi là thiền Tối Thượng Thừa, thiền Như Lai Thanh Tịnh hay là Nhất Hạnh Tam Muội.
    Phật dạy: “Người đem tâm đời (danh, lợi, sân, si) mà làm việc đạo thì việc đạo biến thành việc đời. Trái lại, người đem tâm đạo (từ, bi, hỷ, xả) mà làm việc đời để giúp đỡ chúng sanh thì việc đời trở thành việc đạo.”

    Phật lại dạy thêm: “Dầu thông suốt kinh luận mà không hạnh trì, cũng như kẻ mục đồng đếm bò cho kẻ khác. Người ấy không hưởng được hương vị giải thoát”.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.23/6/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.
    Kinh Thủ Lăng Nghiêm Giảng Giải.
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here

    KINH THỦ LĂNG NGHIÊM GIẢNG GIẢI - SURAMGAMA SUTRA


    Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp

    Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ

    Ngã kim kiến văn đắc thọ trì

    Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here

    (The explanation of the Suramgama Sutra)

    Ngày nay với sự tiến bộ của văn minh khoa học đã giúp con người có những cái nhìn tương đối rộng rãi và chính xác hơn đối với nhân sinh vũ trụ. Ngày xưa, khi Ngài Tam Tạng Trần Huyền Trang khổ công lặn núi trèo non, băng qua tuyết sơn giá buốt đến Ấn Độ để thỉnh kinh. Cuộc hành trình phải mất hai năm đi, hai năm về và 13 năm du học bắt đầu từ năm 629 mãi đến năm 645 Ngài mới về lại Trường An, Trung Quốc. Rời Đại Đường 17 năm, Ngài Huyền Trang đi trên năm vạn dặm đường, xuyên qua 128 quốc gia lớn nhỏ.
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here

    Khi Đức Thế Tôn giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm ở tịnh xá Kỳ Hoàn trong thành Thất-la-phiệt, Ngài nói ra năm loại đề mục kinh như sau :

    1) Đại Phật Đảnh Tất Đát Đa Bát Đát La Vô Thượng Bảo Ân Thập Phương Như Lai Thanh Tịnh Hải Nhãn.

    2) Cứu Hộ Thân Nhân Độ Thoát A Nan Cập Thử Hội Trung Tánh Tỳ Kheo Ni Đắc Bồ Đề Tâm Nhập Biến Trí Hải.
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here

    Nhân duyên vốn từ chúng sinh mà đến bởi vì nếu không có chúng sinh thì không có Phật, mà không có Phật thì cũng không có giáo pháp. Vì thế Phật có thuyết pháp cũng vì chúng sinh và nhân duyên là để khiến cho chúng sinh được liễu sinh thoát tử. Do đó trong kinh Pháp Hoa dạy rằng : ”Phật vi nhất đại sự nhân duyên, xuất hiện ư thế” nghĩa là Phật là một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời. Đại sự mà Phật muốn nói ở đây là gì?
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here


    A Nan gặp Phật, đảnh lễ rơi lệ vì hối hận xưa nay chỉ ham học rộng nghe nhiều mà đạo lực không tự cứu được mình. Ông tha thiết cầu xin Phật dạy cho ông ba thứ thiền quán : Chỉ (xa ma tha), Quán (tam ma) và Thiền Na là phương tiện vi diệu đầu tiên của mười phương chư Phật đã tu tập mà thành tựu Bồ-đề, Niết Bàn. Khi ấy có hằng hà sa số Bồ-tát, các vị Đại A La Hán, Bích Chi Phật trong khắp mười phương đều mong mỏi được nghe, im lặng ngồi yên để lãnh thọ pháp yếu của Phật.
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here


    Nói về con người, chúng ta có sáu căn là mắt, tai, mũi, lưởi, thân và ý. Đây là sáu cánh cửa để giao tiếp với sáu trần bên ngoài là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà phát sinh ra sáu thức là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và sau cùng là ý thức. Trong sáu căn thì mắt và tai là hai căn sắc bén nhất vì nó tiếp xúc với ngoại trần nhiều hơn những căn khác. Tuy nhiên giữa tai và mắt thì tai nghe âm thanh vẫn là nhạy bén hơn.
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here

    Lúc bấy giờ A Nan ở trong đại chúng, liền đứng dậy từ chỗ ngồi bày vai áo bên phải, gối bên phải qùy sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật :

    -     Con là em nhỏ nhất của Phật, nhờ Thế Tôn thương yêu, nay tuy con đã xuất gia, nhưng vẫn còn ỷ nại lòng thương yêu của Thế Tôn, do đó chỉ được đa văn chưa được quả vô lậu. Nên con bị chú thuật Satìcala lôi kéo và sa vào nhà dâm, tất cả chỉ vì không biết chỗ quy hướng của chơn tâm.
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here

    Đức Phật bảo A Nan :

    - Có gì khác nhau giữa màu đen tối mà người mù thấy được và màu tối đen mà người sáng mắt nhìn thấy khi họ ở trong phòng tối?

    - Bạch Thế Tôn! Đúng vậy.
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here

    Mặc dù A Nan và đại chúng được nghe Như Lai chỉ dạy như thế, nhưng tâm chưa được khai ngộ nên vẫn im lặng, mong Như Lai thương xót chỉ dạy thêm, nên đồng đứng dậy chắp tay lắng lòng trong chờ đức Phật chỉ dạy.

    Tuy Phật đã giải thích rõ ràng cái thấy và tánh thấy của mắt để giúp ông A Nan và đại chúng thấu biết mà quay về với bản tâm của chính họ, nhưng A Nan chưa phá được tâm vọng chấp đang bị kẹt cứng ở nơi sắc uẩn và thọ uẩn nên tâm vẫn còn mờ mịt không biết lối quay về.

    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here

    Phật bảo :

    - Này đại vương! Như đại vương đã biết ngay nơi thân ông đang tồn tại, nay Như Lai hỏi ông. Thân máu thịt này của ông có giống như thân kim cương bất hoại hay sẽ bị biến hoại?
    Bạch Thế Tôn! Thân con hiện nay, rốt cuộc rồi sẽ bị biến hoại.
     
     
     
     
     
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here

    Ông A Nan nghe lời dạy bảo thâm thiết của Phật, sung sướng rơi nước mắt, vòng tay mà bạch Phật rằng :

    -    Tuy con nghe được pháp âm vi diệu của Phật, ngộ được tâm vốn thanh tịnh sáng suốt viên mãn thường trú. Nhưng con ngộ được pháp âm thường trụ của Phật vừa dạy thì con cũng dùng tâm phan duyên để nhận biết điều mong ước. Con dù có được tâm này cũng chưa dám nhận là tâm tánh xưa nay hằng có. Cúi mong đức Phật thương xót, tuyên dạy viên âm, nhổ sạch gốc nghi ngờ trong con để con được quay về với đường vô thượng giác.
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here

    Phật bảo A Nan :

    - Cái thấy mà ông thấy tôi, dù không phải là chơn tâm minh diệu, nhưng nó là là tánh thấy trong sáng chưa nhuốm trần lao. Nó như vành trăng thứ hai chứ không đến nỗi như bóng trăng đáy nước. Ông hãy chín chắn lắng nghe, nay tôi chỉ cho ông cái nghĩa không có chỗ trả về.
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here

     
    A Nan bạch Phật rằng :

    - Bạch Thế Tôn! Đúng như lời pháp vương dạy : tâm tánh cùng khắp mười phương thế giới, yên lặng thường trụ, không có sinh diệt. Song nếu đem lời dạy này, so sánh với thuyết của Phạm Chí Sa Tỳ Ca La về “minh đế” và thuyết của bọn ngoại đạo Đầu Khôi về “chân ngã” khắp cùng, khác nhau chỗ nào?
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here

    Ông A Nan Bạch Phật :

    -     Như Thế Tôn vì chúng con giảng giải về nhân duyên, tự nhiên và các tướng hòa hợp và chẳng hòa hợp. Tâm chúng con vẫn còn chưa tỏ ngộ, mà nay nghe Phật dạy  : Tánh thấy trong khi thấy, tánh thấy đó không phải tánh thấy bản thể làm chúng con càng thêm mờ mịt. Cúi xin Phật thương xót bố thí tuệ nhãn, khai thị cho chúng con về bản tâm thanh tịnh, bản giác thường trú.
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here


    Phật bảo A nan :

    - Dù ông ngộ được tâm tánh bản giác nhiệm mầu sáng suốt, không phải nhân duyên, không phải tự nhiên, nhưng ông còn chưa rõ tâm tánh sinh ra do hòa hợp hay không hòa hợp.

    A Nan! Như Lai lại lấy tiền trần để hỏi ông. Nay ông còn lấy tất cả vọng tưởng hòa hợp với tánh nhân duyên trong thế gian mà tự nghĩ lầm rằng chứng được tâm Bồ-đề là do hòa hợp mà phát khởi. Vậy nay tánh thấy thanh tịnh nhiệm mầu của ông là cùng với sáng hòa hợp hay cùng với tối hòa hợp? Là cùng với thông hòa hợp hay cùng với bít hòa hợp?
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here

    A Nan! Ông còn chưa rõ tất cả các tướng huyển hóa nơi tiền trần, ngay đó sinh ra, ngay đó diệt mất, huyển vọng nên gọi là tướng, nhưng tánh chân thật vốn là thể giác ngộ sáng suốt nhiệm mầu (Diệu giác minh thể). Như vậy cho đến ngũ uẩn, lục nhập, từ thập nhị xứ cho đến thập bát giới, khi nhân duyên hòa hợp thì hư vọng sinh ra, khi nhân duyên tách rời, hư vọng gọi là diệt. Sao ông không biết sinh diệt đến đi vốn là Như Lai tạng thường trú sáng suốt nhiệm mầu, là tánh chân như vi diệu tròn đầy, không lay động. Ở trong tánh chân thường ấy mà cầu những tướng đến đi, mê ngộ, sinh tử hoàn toàn không thể được.
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here

    1) Thu Sắc uẩn :

    Phật dạy rằng :

    - A Nan! Tại sao ngũ uẩn chính là Như Lai tạng, là tánh chân như nhiệm mầu? A Nan! Ví như có người dùng mắt thanh tịnh để nhìn bầu trời quang đãng, chỉ thấy một khoảng không trong vắt. Người kia vô cớ nhìn sững chẳng nháy mắt, nhìn lâu hóa ra mỏi mệt,
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here

    1) Thu Nhãn nhập :

    Lại nữa A Nan! Vì sao bản tánh của sáu nhập vốn là hiện tượng biểu hiện từ Như Lai tạng?

    A Nan! Con mắt khi ngó chăm chú sinh ra mỏi mệt. Tánh thấy và sự mỏi mệt đều là hiện tượng phát sanh từ thể tánh Bồ-đề trong sáng.
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here

    Tuy thế giới hiện tượng có muôn hình vạn tướng, lớn nhỏ, rộng hẹp, cao thấp… mà ngôn ngữ con người đôi khi cũng khó mà diễn đạt cho đầy đủ, nhưng tất cả cũng bắt đầu từ nội căn và ngoại trần. Nội căn thì có mắt, tai, mủi, lưỡi, thân và ý và ngoại trần thì có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Vì sáu căn tiếp xúc với sáu trần mới phát sinh ra sáu thức cho nên sáu căn và sáu trần chính là sinh xứ của sáu thức và của các tâm niệm. Do đó sáu căn, sáu trần chính là mười hai xứ.
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here

    Ông A Nan thưa Phật :

    - Bạch Thế Tôn! Như Lai thường nói về nhơn duyên hòa hợp rằng : “Tất cả các thứ biến hóa trong thế gian đều nhân bốn món đại hòa hợp mà phát sinh. Thế sao Như Lai ở đây lại bác bỏ cả hai nghĩa “nhơn duyên” và “tự nhiên”. Nay tôi không biết nghĩa đó thế nào,
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here


    Sau khi được Phật chỉ bảo tận tường để thu bốn khoa và bảy đại vào Như Lai Tạng bản thể thì ông A Nan và đại chúng cùng trực ngộ tâm tánh, không còn hoài nghi, dính mắc. Ban đầu ông A Nan và đại chúng chấp cái thân giả tạm này cho là tâm ở trong thân. Ông A Nan nhờ Phật chỉ dạy bằng phương tiện dẫn dụ, lời lẽ khéo léo nhiệm mầu nên cả thính chúng thân tâm bây giờ thanh thoát rỗng rang.
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here


    Bấy giờ Ngài Phú Lâu Na Di La Ni Tử ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy quỳ gối chắp tay cung kính bạch Phật rằng :

    - Thế Tôn khéo vì chúng sinh mà diễn bày đệ nhất nghĩa đế. Từ lâu Thế Tôn thường khen con là thuyết pháp đệ nhất trong hàng người thuyết pháp. Vậy mà nay con nghe pháp âm nhiệm mầu Như Lai vừa dạy chẳng khác nào người điếc cách xa trăm bước lắng nghe tiếng muỗi mòng.
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here


    Phật dạy rằng :

    A Nan! Bản thể của hiện tượng vốn chung cùng, do nhơn duyên mà biến hiện. Trong thể tánh không đồng không dị, phân giải sinh ra thành dị. Khác với các dị hóa hợp lại thành đồng. Tánh đồng dị đã phát minh, hai lực hấp dẫn và đề kháng cũng tự thành năng lực. Giữa sự nhiễu loạn mâu thuẫn bên trong của vật lý tâm lý và tánh hư không; những tánh chất năng động hợp thành thế giới, tánh thể bất động là hư không. Hư không là đồng, thế giới là dị. Đồng dị hay không đồng dị, tất cả đều gọi là pháp hữu vi.
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here


    ÔNG A NAN TRẦN THUẬT CHỖ THÂM NGỘ VÀ THỈNH VẤN PHÁP TU GIẢI PHÁP

    Ông A Nan và đại chúng nghe Phật dạy, những mối nghi hoặc được trừ, tâm ngộ thật tướng, thân ý khinh an được cái vui từng có. Người người cảm kích sung sướng đến rơi nước mắt.

    Bấy giờ ông A Nan đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật và thưa rằng :

    - Bạch Thế Tôn! Đức đại bi vô thượng thanh tịnh bảo vương, khéo dùng phương tiện : Nhơn duyên, thí dụ, lời lẽ mở mang tâm trí, hướng dẫn chúng tôi ra khỏi biển khổ tối tăm.
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here

    - A Nan! Nay ông muốn cho tánh thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết của ông hợp với bốn đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của Như Lai thì trước hết phải lựa bỏ những gì là gốc rễ sanh tử để tùy thuận tánh sáng suốt tràn đầy không sanh không diệt và chuyển hóa những tánh hư vọng sanh diệt trở về với bản giác tịnh minh. Dựa trên bản giác tịnh minh làm nhơn địa tu hành thì quả địa chứng đắc mới viên mãn vô thượng. Ví như việc làm của người lắng nước. Nước đục đựng trong lu hồ, để yên và yên mãi không chao động, cát tro bụi đất chìm lắng xuống thì nước trong hiện ra. Đây là giai đoạn uốn dẹp khách trần phiền não cũa hành giả cũng y như vậy. Sau đó, gạn bỏ sạch, hết cặn cáu tro bụi…chỉ còn thuần nước trong. Bấy giờ mới gọi là người dứt hẳn căn bản vô minh. Chỉ còn tướng sáng suốt thuần tịnh thì những biểu hiện của ba nghiệp không còn là bất thiện nữa. Bấy giờ, nhất cử, nhất động hợp với các đức tánh nhiệm mầu: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của Niết bàn Phật.
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here

    Bạch Thế Tôn! Ông A Nan thưa. Vì sao đi sâu vào một căn lại có thể khiến cho sáu căn đồng thời thanh tịnh?

    Phật dạy rằng:

    -A Nan! Ông được quả Tu Đà Hoàn, song tập khí vô thỉ còn thiếu, chưa thể một lúc tháo gở những lớp vô minh: sinh, trụ, dị, diệt.
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here


    ÔNG A NAN NGHI NGỜ RẰNG KIẾN, VĂN, GIÁC, TRI KHÔNG CÓ TỰ THỂ.

    Bạch Thế Tôn! Ông A Nan thưa. Theo lời Thế Tôn dạy chỗ phát tâm cầu được thường trụ trong lúc tu nhân, cốt yếu cần phải cân xứng với những đức tính trong lúc chứng quả. Bạch Thế Tôn! Như trong quả vị, nào là Bồ-đề, Chân như, Phật tánh, Am ma la thức, Không Như Lai Tạng, Đại viên cảnh trí. Bảy thứ danh hiệu tuy có khác nhau, nhưng thế tánh đều thanh tịnh viên mãn, vững chắc như Kim cương vương, thường trụ như hư không bất hoại.
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here


    Ông A Nan thưa :

    - Bạch Thế Tôn! Dù Phật đã dạy nghĩa quyết định thứ hai về công việc tháo mở gút. Song tôi nghĩ rằng những người mở gút nếu không biết đầu mối của gút ở đâu thì ắt hẳn không thể nào mở được.

    - Bạch Thế Tôn! Tôi và hàng Thanh Văn hữu học trong hội này cũng vậy. Từ vô thỉ đến nay, chúng tôi cùng sinh cùng diệt với các thứ vô minh, tuy được nghe nhiều Phật pháp thế này, mang tiếng xuất gia mà như người sốt rét cách nhật (chợt giác chợt mê). Xin đức đại từ thương xót kẻ đắm chìm, chỉ cho tôi ở nơi thân tâm này cái gì là gút? Và muốn mở phải khởi sự như thế nào?
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here


    NGUYÊN DO CỦA MỘT-SÁU DỊ ĐỒNG

    Ông A Nan chấp tay đảnh lễ thưa :

    - Bạch Thế Tôn! Nay tôi nghe Phật dạy cho những câu pháp chân thật thanh tịnh diệu thường, nhưng tâm còn chưa rõ cách thức mở gút thế nào và vì sao mở hết gút thì một cũng không còn? Xin Phật rũ lòng thương đại chúng trong hội này và chúng sinh tương lai bố thí pháp âm để chúng tôi có thể trừ sạch cấu nhiễm sâu dày trầm trọng!
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here

    CĂN, TRẦN, THỨC, GIỚI, THẤT ĐẠI ĐỀU LÀ DỮ KIỆN CHỨNG ĐẮC VIÊN THÔNG.

    Ông A nan và đại chúng nhờ Phật khai thị tuệ nhãn được Viên dung Thông đạt. Đối với chân lý xẻ bỏ được màn lưới nghi ngờ đen tối. Tất cả đồng chấp tay cung kính thưa:

    - Bạch Thế Tôn! Ngày nay chúng tôi thâm tâm sáng suốt vén bức rèm vô minh, tuệ giác được phần vô ngại. Đối với diệu nghĩa “sáu mở một không còn” Như Lai dạy chúng tôi đã lãnh hội. Nhưng nay còn chưa rõ chúng tôi cần phải làm gì để tâm tánh được “viên thông”, khi rời pháp âm hướng dẫn của Phật? Xin Phật rũ lòng thương xót ban cho chúng tôi những bí pháp thậm thâm được xem như lời dạy cuối cùng của Phật?
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here

    TỨC LÀ VIÊN THÔNG VỀ KIẾN ĐẠI


    Ngài Đại Thế Chí Pháp Vương Tử cùng với 52 vị Bồ-tát đồng tu một pháp môn cùng đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật :

    - Tôi nhớ hằng sa kiếp trước có Đức Phật ra đời hiệu Vô Lượng Quang. Thời đó có 12 Đức Phật ra đời trong một kiếp. Đức Phật sau hết hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang dạy cho tôi phép niệm Phật tam muội : Rằng thập phương Như Lai thương nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con. Nếu con cũng đồng nhớ mẹ như mẹ nhớ con thì đời đời mẹ con không xa cách. Tâm chúng sinh nhớ tưởng Phật thì tâm ấy là Phật. Nhất định thấy Phật, không cần phương tiện nào khác. Ví như người ướp hương thì toàn thân thể sẽ thành thơm, ấy gị là hương quang trang nghiêm. Chính tôi nhờ niệm Phật mà được vô sanh nhẫn. Nay ở cõi Ta bà, tôi nguyện hướng dẫn người niệm Phật để có được tịnh độ. Phật hỏi nhân duyên nào được viên thông, xin thưa: Tôi thu nhiếp tất cả sáu căn không vọng niệm. Do chánh niệm tương tục mà được Tam-ma-đề. Đối với tôi đấy là pháp môn thù thắng nhất.

    Chương Thứ Mười

    QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT NHĨ CĂN VIÊN THÔNG

    BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM THUẬT LẠI CHỖ TU CHỨNG

    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here

    Khi bấy giờ Bồ Tát Quán Thế Âm đứng dậy cung kính chấp tay thưa :
    - Bạch Thế Tôn! Tôi nhớ hằng hà sa kiếp trước, có Đức Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm và tôi đã phát Bồ Đề tâm thời ấy. Đức Phật Quán Thế Âm dạy tôi phương pháp “nghe, suy nghĩ và tu” để được thể nhập Tam-ma-đề.
    - Bạch Thế Tôn! Trước hết tôi sử dụng tánh nghe: Nghe động và nghe tĩnh, rồi tôi xóa đi ý niệm động tĩnh ấy, từ đó sức tịch tĩnh tăng dần, tôi dứt được “năng văn” và “sở văn”. Sức tịnh tĩnh không dừng ở đó bấy giờ tánh giác tôi lại hiển hiện ra. Tôi tiếp tục tư duy : Dù là giác tánh nhưng tánh “năng giác” “sở giác” hãy còn.
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here

    Bấy giờ, Đức Thế Tôn ngồi trên tòa sư tử, ngũ thể đồng phóng ra ánh sáng báu soi sáng trên đảnh của thập phương Như Lai, các Pháp Vương Tử, các Bồ Tát như số vi trần. Chư Như Lai trong mười phương cũng phóng ánh sáng như vậy soi đến đảnh Phật Thích Ca và các Bồ Tát, các chúng Thanh Văn trong đại hội. Rừng cây ao hồ đều diễn ra tiếng pháp, ánh sáng của chư Phật giao xen như lưới tơ báu. Tất cả đại chúng được cái chưa từng có. Trời mưa hoa sen báu đủ màu: Xanh, vàng, đỏ, trắng xen lộn vào nhau. Thập phương hư không thành màu thất bảo. Cõi Ta bà bỗng nhiên không hiện chỉ còn thấy vi trần quốc độ trong mười phương hợp thành một cõi, tiếng ca ngâm thanh thoát tự nhiên dìu dặt nổi lên.
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here


    Sắc bị vọng tưởng tác động vào thanh trần làm mất đi cái hồn nhiên như thị khách quan của sự vật, khó mà tu chứng “viên thông”.

    Sắc là nói cho tất cả những vật thể có hình tướng của thế giới hữu vi. Thí dụ như đóa hoa, cái nhà, cái xe, ngọn núi…Còn trần là biểu tượng của nhiễm ô, không trong sạch. Nếu một người tâm bất tịnh tức là còn nhìn đời bằng ánh mắt của tham đắm dục tình thì nhìn cái gì cũng mê cũng thích, cũng muốn chiếm lấy nên sắc bây giờ bị thanh trần làm nhiễm ô theo. Bởi vì chúng sinh nghĩ rằng trong cái sắc có sự quyến rũ hấp hẫn lòng người khiến con người hành động bất thiện. Nhưng nghĩ kỹ lại thì vật chất là vô tri vô giác, tự tánh thanh tịnh bản nhiên chớ có quyến rũ ai đâu. Cái mà con người gọi là hấp dẫn là bởi tại cái nhìn của họ có tham đắm si mê chớ vật thể tự nó đâu có tham đắm si mê. Vì vậy đối với những bậc đạo cao đức trọng thì sắc bây giờ không còn là trần nữa vì cái nhìn của họ đối với thế gian là huyễn nên chẳng có cái gì làm họ động tâm.
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here

    Lời Người Viết

     

    Vì kinh Thủ Lăng Nghiêm có đề cập đến nhiều tôn giáo hoạt động vào thời Đức Phật Thích Ca còn tại thế nên chúng tôi nhân đây giới thiệu đến quý Phật tử cái nhìn đơn giản về những tôn giáo lớn trên thế giới hiện nay. Trong mục này vì phải đưa ra một số dữ kiện lịch sử cho nên mặc dầu luôn cố gắng giữ mình trên cương vị khách quan, trong tinh thần xây dựng, nhưng dầu sao ít nhiều chúng tôi cũng không tránh khỏi sự sai lầm để cho cái bản ngã đáng ghét, chủ quan hẹp hòi thiển cận của mình xuất hiện. Nếu có đoạn nào không hài lòng, xin quý độc giả rộng tình bỏ qua.       Chân thành cảm tạ.

    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here

    Thiên Chúa giáo, Hồi giáo hay Tin lành chỉ tin có một Thượng đế duy nhất thì gọi là nhất thần giáo. Trong khi đó, đạo Khổng hay đạo Lão tin vào nhiều đấng thần linh nên những đạo này được gọi là đa thần giáo.

    Ngược lại, đạo Phật không phải là nhất thần giáo, cũng chẳng là đa thần giáo mà cũng không phải là giáo điều chủ nghĩa tức là vị giáo chủ đưa ra bất cứ giáo điều gì cho dù đúng hay sai thì tín đồ bắt buột răm rắp tuân theo. Chính Đức Phật đã khẳng định rằng :
    Adobe Flash Player not installed or older than 9.0.115!Get Adobe Flash Player here

    Mặc dù đạo Phật không rời thế gian, nhưng không có nghĩa là con người cứ bám chặt, chấp thủ vào thế gian thì làm gì có giải thoát. Vì thế nếu lấy đạo Phật là cái đạo “thoát tục” để điều hành việc ”thế tục”  thì không thể thành được. Thí dụ, vào thời nhà Trần, khi quân Nguyên xua đại hùng binh sang xâm chiếm nước ta, vua Trần Nhân Tông nghe tin Hưng Đạo Vương thua chạy về Vạn Kiếp, liền ngự một chiếc thuyền nhỏ xuống Hải Dương, trong bụng lo sợ, mới bảo Hưng Đạo Vương rằng :HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.23/6/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.